|
CHƯƠNG VII
NHÀ THỜ THÁNH GIÁ GIÊRUSALEM
I. THÁNH GIÁ BỊ CHÔN VÙI VÀ BỊ XÚC PHẠM
Chúa Giêsu chịu chết ngày 15 tháng Nisan. Những dụng cụ hành hình, gồm thập giá, đinh sắt của Chúa Giêsu và hai người trộm cướp bị đóng đinh hai bên bị chôn trong một hố hoặc một hang gần mộ mà ông Giuse Arimatea tặng để táng xác Chúa Giêsu. Người Do Thái vẫn cấm chôn những người bị sử tử trong nghĩa trang chung, để tránh bị tục hóa. Những người bị sử tử phải chôn riêng biệt tại nơi riêng, và cả những dụng cụ hành hình: thập giá, đinh, gươm, sỏi… phải chôn riêng, vì chúng bị ô uế. Chúa Giêsu sống lại và lên trời, nhưng chẳng bao lâu sau, nơi Ngài chịu hành hình trở thành nơi thánh đối với các tín hữu Kitô. Nhiều người lui tới tưởng niệm và cầu nguyện, quỳ gối trên hố chôn vùi các dụng cụ hành hình, để hôn mộ đá đã an táng Chúa. Đồi Golgotha trở thành nơi thu hút các môn đệ Chúa Giêsu. Trình trạng này khiến cho người Do Thái và dân ngoại chú ý và lo âu. Hoàng đế Adriano (117- 138), trong những năm cuối đời, trở thành bạo chúa, ghen tương và ngờ vực. Ông ra lệnh làm ô uế đồi Golgotha và mộ thánh để các tín hữu Kitô khỏi lui tới kính viếng.
Theo lệnh của hoàng đế, các hố trũng phân cách giữa đồi Golgotha và mộ Chúa được lấp đầy đất, và bít kín lối vào mộ, đồng thời làm biến mất đồi. Khu vực đóng đanh và mộ Chúa bị vây quanh bằng một bờ cao và đổ đất cho bằng. Và trên đó, hoàng đế ra lệnh cho xây cất một đền thờ kính thần Jupiter và một đền thờ khác kính thần Venus. Sử gia Euebio (Via Constantini, III, 26), thốt lên: “Thật là điên rồ,ông ta tưởng là giấu kín nhân loại ánh quang rạng rỡ của mặt trời mọc lên trên thế giới! Nhưng ông không thấy rằng khi muốn làm quên lãng nơi các thánh như thế, ông ta lại ấn định rõ ràng địa điểm, và trong ngày Chúa Quan Phòng đã định để giải thoát Giáo Hội, những hàng cột ô uế của đền thờ ấy là những dấu chỉ rõ ràng không thể sai lầm, cho sự khám phá nơi các thánh”. Các Kitô hữu không muốn đến Canvê bị ô uế vì những đền thờ và việc thờ phượng vô luân nữa. Nhưng họ vẫn quan niệm tin tưởng rằng những nơi do Adriano xây cất có bao trùm nơi cứu độ. (pp. 3-4).
II. THÁNH NỮ HELENA TÌM THẤY THÁNH GIÁ
Hoàng đế Constantino lên ngôi năm 306. Năm 312 ông được Thánh Giá hiện ra và năm 313, ông trở lại Kitô giáo và ban sắc chỉ tha bắt đạo. Hoàng hậu Helena theo gương của con, nên đã trở lại đạo năm 64, 65 tuổi. Bà nhiệt thành mộ đạo, và cứu giúp người nghèo, sống đơn sơ. Để chứng tỏ lòng yêu mến Chúa Kitô và mến đạo, hoàng đế quyết định xây một thánh đường lớn trên đồi Golgotha và trên mộ Chúa Giêsu. Sử gia Eusebio còn giữ trọn vẹn bức thư của hoàng đế gửi thánh Macario, Giám mục thành Jerusalem, thông báo quyết định và xin Đức Giám Mục giữ nhiệm vụ giám sát công việc xây thánh đường. Một linh mục ở Constantinopoli tên là Eustazio làm kiến trúc sư. Vương cung thánh đường được thánh hiến ngày 14.9 năm 335 gồm các tiền đường, cổng và hai nhà thờ: Martyrio tại nơi Chúa chịu đóng đinh và Anastsis ở mộ thánh.
Hoàng hậu Helena, lúc ấy đã 80 tuổi, đến Jerusalem để hành hương, và bà đã tìm Thánh Giá Chúa. Tương truyền kể rằng khi khai quật, họ tìm thấy tấm elogium, tấm bảng mà quan Philato ra lệnh viết và gắn vào thâp giá Chúa Giêsu: “Giêsu Nazareth, Vua Người Do Thái”. Tìm thấy 3 thập giá. Vấn đề là: đâu là thập giá của Chúa và đâu là thập giá của hai kẻ trộm. Thánh Macario đề nghị mang cả ba tới nhà kia có một phụ nữ sắp chết. Ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa ban sức khỏe cho nhân loại nhờ cái chết của Con duy nhất Chúa trên thập giá. Giờ đây, Chúa soi sáng cho nữ tỳ Chúa (Helena) tìm cây gỗ hồng phúc nơi Đấng Cứu Chuộc chung con đã bị treo lên, xin tỏ cho chúng con bằng chứng thập giá nào trong ba cây thập giá này Chúa đã dùng để tôn vinh danh Chúa và đâu là những dụng cụ hành hình của những kẻ bất lương. Xin làm cho phụ nữ này, đang nằm trên giường, khi chạm tới cây gỗ cứu độ được chỗi dậy tức thì khỏi sự chết gần kề và được sự sống”. Nói rồi, Đức Giám Mục giơ cây thập giá lên động đến người sắp chết. Đến cây thứ ba, thì người ấy mở mắt, chỗi dậy khỏi giường, bắt đầu đi lại trong nhà và ca ngợi Chúa vì được khỏi bệnh tức thì (Rufino, I,c.17).
Việc thánh nữ Hêlena tìm được thánh giá thật là sự kiện lịch sử. Thánh Cirillo (+386), kế vị thánh Macario làm Giám Mục thành Jerusalem, đã viết cho hoàng đế Costanzo, con của hoàng đế Constantino, rằng: “Dưới thời Constantino, thân phụ của ngài, cây gỗ cứu độ đã được tìm thấy ở Jerusalem”. Costanzo qua đời năm 361, nên chắc chắn bức thư của thánh Cirillo đã được viết trước ngày đó. Thánh nữ Helena gửi một mẩu thánh giá thật cho hoàng đế Constantino, và ông đặt trong tượng của ông ở triều đình Constantinople; một phần bà đích thân mang về Roma, phần còn lại lưu tại Jerusalem. Theo sử gia Socrate, việc tìm thấy Thánh Giá vào khoảng năm 325 hoặc 326.
III. THÁNH GIÁ TỪ ROMA
Hoàng hậu Helena, sau khi hành hương Jerusalem, lên tàu trở về Roma, mang theo nhiều thánh tích: gỗ thánh giá, đất thánh ở đồi Calve, đinh, vài cái gai. Bà đặt các vật thánh này trong dinh thự thuộc khu vực Sessoriano, tư dinh của thánh nữ Helena, mẹ của hoàng đế Constantino. Dinh thự được xây vào thế kỷ thứ 3 và là tài sản của hoàng gia cho đến thế kỷ thứ 6.
Xác định rằng vào thế kỷ thứ 4, hoàng thái hậu Helena, cũng như nhiều tín hữu Roma hồi đó đã đi hành hương tại Jerusalem. Khi trở về, năm 329, bà mang theo một mảnh Thánh Giá thật Chúa đã Chịu đóng đanh, và đặt trong dinh thự của bà. Bà qua đời cùng năm 329.
Để tưởng niệm thân mẫu, hoàng đế Constantino đã biến một phần dinh thự Sessoriano thành nhà thờ để đựng khúc Thánh Giá thật. Nhà thờ đó hiện nay là nhà nguyện thánh nữ Helena nơi đặt Thánh Tích. Vào thế kỷ 12, ĐGH Lucio II (1144- 1145) chia phòng lớn làm 3 gian và cho xây một tháp chuông, nhưng không thay đổi gì các tường bên ngoài. Ngài cho nâng nền lên, nhưng không đụng gì tới nền của nhà nguyện nhỏ, có lẽ vì theo truyền thống, nền đó gồm đất được đưa từ đồi Calvê về đây. Cho tới thời kỳ Phục Hưng, nhà nguyện thánh nữ Helena được tách riêng, và chỉ có thể vào được từ bên ngoài, nhưng từ đó, thì được nối với đại sảnh đường bằng hai cầu thang, từ hai bên hậu chẩn của thánh đường. Sau cùng, vào thế kỷ 18, nhà thờ có hình dáng như chúng ta thấy ngày nay.
Nhà nguyện thánh Helena
Nhà nguyện Thánh Tích chứa đựng gỗ Thánh Giá, có chứa cả một cánh thập giá của người trộm lành cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu. Đằng sau bàn thờ, có những mảnh Thánh Giá thật. Mảnh hiệu được tìm thấy vào cuối thế kỷ 15. Năm 1561 ĐGH Pio IV đã ủy thác cho dòng Xitô nhiệm vụ coi sóc thánh đường Thánh Giá này.
Khoảng trống trước nhà nguyện Pietà và nhà nguyện thánh Helena, có một cổng sắt lớn đóng lại. Bên trái có ghi hàng chữ: “Trong nhà nguyện Thánh Giá Jerusalem này, phụ nữ không được vào, nếu không sẽ bị vạ tuyệt thông, ngoại trừ một lần trong năm vào ngày lễ thánh hiến tức là 20 tháng 3”.
Không rõ tại sao có kệnh cấm. Nhà nguyện là cung thánh của thánh đường này. Thánh Tích được giữ hơn một ngàn năm trong nhà nguyện này. Lệnh cấm cho tới năm 1935, nghĩa là cho tới khi tu bổ nhà nguyện, dưới thời viện phụ Edmondo Bemardini, và được Đức Piô 11 thu hồi.
IV. NHÀ NGUYỆN MỚI ĐỰNG THÁNH TÍCH
Thế kỷ 16, ĐTC Piô 5 cho phép chuyển Thánh Tích tới nhà nguyện mới khô ráo hơn, thay vì nhà nguyện dưới đất ẩm thấp. Nhà nguyện hiện thời được bố trí nhân dịp năm thánh 1925, tọa lạc bên trên nhà mặc áo và nhà nguyện Pietà. Bước vào, chúng ta thấy thanh ngang thập giá người ttrộm lành, dài 178 cm, và ngang 13 cm. Có 14 chặng đàng thánh giá. Kiến trúc sư Florestano di Fausto muốn các tín hữu chuẩn bị tâm hồn bằng việc suy niệm các chặng đó, trước khi tiến đến đồi Calvê với Thánh Giá đựng thánh tích. Nhà nguyện được khánh thành năm 1930, và hoàn tất năm 1952.
V. CÁC THÁNH TÍCH
Từ phần thánh giá thánh nữ Helena mang về từ Jerusalem, hiện thời chỉ còn 3 mảnh nhỏ. Sở dĩ được chia làm 3 phần, vì người ta muốn xếp thánh tích thành hình thánh giá. 3 mảnh này không phải là tất cả thánh tích thánh Giá được đưa từ Jerusalem về Roma. Thánh Gregorio Cả (+604) đã tặng một mẫu thánh giá cho Reccaredo, vua người Visigot, Tây Ban Nha. Nhưng mẫu này không thuộc thánh tích của thánh nữ Helena, nhưng do ngài đích thân mang về Roma, sau khi đã từng làm sứ thần Tòa Thánh ở Constantinople. Nhưng chắc chắn thánh tích thánh giá ở nhà nguyện thánh Helena đã chịu cắt xén. Năm 1515, Đức Leô 10 giáo hoàng cho cắt một mẫu để tặng vua Francois I của Pháp. ĐGH Urbano 8 (1623- 1644) muốn tặng một mẫu cho đền thờ thánh Phêrô và lấy từ thánh giá ở đền thánh Helena. Trong thế kỷ 19, các vị Giáo Hoàng Pio 6, Pio 8, và Pio 9 đã lấy một mẫu để tặng những nhân vật quí tộc. Tính chất xác thực của thánh giá ở Đền thờ Thánh Giá Jerusalem được chứng thực qua nhiều văn kiện. Đồng thời các văn kiện phụng tự, cũng chứng tỏ. Thánh Gregorio Cả (+604) đã ấn định chặng thứ sáu Tuần Thánh ở đền thờ Thánh Giá Jerusalem. Chính ĐGH đã đi rước không giầy vớ cùng với các giáo sĩ và giáo dân, từ đền thờ thánh Gioan Laterano đến đền thờ Thánh Giá để thờ lạy Thánh Giá.
Ba mảnh thánh giá hiện được giữ trong vỏ (reliquiario) quí giá do ông Valadier thực hiện. Năm 1789, do lệnh chính phủ Pháp (Republica Tiberina), đan viện Thánh Giá Jerusalem bị tịch thu, các đan sĩ bị trục xuất, trừ một vị, đền thờ bị trước doạt những gì quí giá. Ngày 13.9 áp lễ tôn vinh Thánh Giá, một lệnh khác tịch thu thánh tích Thánh Giá. Ba mảnh Thánh Giá và 2 cái gai được bọc trong giấy mỏng. Bảng án và đinh thánh bỏ trong các bình, nhưng không có đế nghệ thuật.
Ngày 19 tháng 9 năm 1780, một số nhân viên Cộng Hòa đến gặp người giữ nhà thờ là cha Sisto Benigni, OC, với lệnh tịch thu thánh tích. Cha giữ nhà thờ biết họ muốn tiêu hủy thánh tích vì ghét đạo, nên bất chấp sự đe dọa, ngài không trao chìa khóa nhà nguyện, ngoại trừ cho ông Prefetto. Khi ông này đến, cha Sisto dấu chìa khóa đi. Ông Frefetto buộc lòng ra lệnh phá cửa bên trong nhà nguyện, đe dọa, nhưng rồi ông động lòng và trả lại chìa khóa cho cha Sisto. Thánh tích được cứu vãn. Năm 1803, nữ quận công Tây Ban Nha Villa-Hermorsa dành tiền để thuê làm bình đựng thánh tích mới để đựng gỗ Thánh Giá. Ông Joseph Valadier thực hiện thánh giá đựng thánh tích này.
VI. BẢNG ÁN CHÚA GIÊSU
Đền thờ thánh giá Jerusalem được tu bổ nhiều lần. Trong lần tu bổ năm 1491- 1942, khi sửa lại mái, người ta tìm được một hộp bằng chì dài 2 gang tay, đóng kín. Có 3 dấu ấn ở giữa với hàng chữ Gerardus cardinalis S. Crucis. Trong đó có bảng gỗ dài một gang tay rưỡi, trên đó có 3 hàng, ghi khắc trên gỗ. Mỗi hàng có một loại chữ khác nhau. Hàng La tinh: JS Nazarenus Re. Trên là tiếng Hy Lạp, và sau cùng là hàng chữ bằng tiếng Hebreu hay Siro-Caldai. Đó là bảng án: Giêsu Nazareth Vua người Do Thái. Ngày khám phá là ngày 1.2.1492. Ngày 12.3.1492, Đức Giáo Hoàng Innocennzo 8 đến dự lễ tại nhà thờ thánh Gregorio al Celio, và đến xem bảng án đó. Năm 1946, Đức Alexandro 6 xác nhận sự khám phá đó là chân thực.
CHƯƠNG VIII
THANG THÁNH Thang Thánh là một trong những thánh tích được các tín hữu hành hương đến kính viếng ở Roma. Thang này, theo lưu truyền, là thang Chúa Giêsu đã phải leo lên leo xuống 3 lần trong dinh quan tổng trấn Philato: lần đầu khi Ngài bị dẫn tới trước mặt Philato, lần thứ hai Ngài trở lại, sau khi bị vua Hêrôdê gửi trả lại Philato; lần thứ ba khi Ngài bị kết án tử hình. Thánh nữ Helena, mẹ của hoàng đế Constatono, đã từ Jerusalem về Roma năm 326. Hoàng đế tặng cho ĐGH Silvestro I (314- 337), và ngài đặt tại dinh Laterano. Thang lưu lại đây hơn một ngàn năm, cho đến khi ĐGH Sisto 5 (1585- 1590) vào thế kỷ 16 ra lệnh phá hủy tòa nhà cũ của dinh Giáo Hoàng và đặt trong tòa nhà mới, gần đối diện với đền thờ thánh Gioan Laterano và do kiến trúc sư Domenico Fontana xây cất. Thang được đưa ban đêm tới địa điểm mới: đưa từ bậc một từ dưới lên cao. Đền thánh này hiện nay được Tòa Thánh ủy thác cho các cha dòng Thương Khó có tu viện cạnh đó coi sóc. Các tín hữu thường quì và leo lên 28 bậc Thang Thánh, bằng cẩm thạch được bọc gỗ cho khỏi mòn. Cho đến năm 1723, các bậc thang còn mang những vết máu từ vết thương Chúa Giêsu. Nhưng sau đó bị mòn và biến mất. Ở bức tường quanh thang có những bích họa liên hệ tới những cảnh tượng của Tuần Thánh: bên phía dưới trái của thang là cảnh Bữa Tiệc Ly, bên phải là cảnh Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Trên đầu thang là cảnh Chúa chịu đóng đanh.
Trên đầu thang có nhà nguyện gọi là Sacta Santorum, nơi cực thánh, chứa đựng các thánh tích vô giá mang về từ thánh địa và một số hài cốt của các vị tử đạo ở Roma thời Giáo Hội tiên khởi. Đó là nhà nguyện riêng của các vị Giáo Hoàng trong thời Trung Cổ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 13, và được dâng kính thánh Lorenso. Cha Carlo Fioravanti, Bề trên cộng đoàn dòng Thương Khó coi sóc Thang Thánh nói rằng: “các tín hữu Công Giáo Roma thời Trung Cổ tin rằng danh từ Sancta Sanctorum, nơi cực thánh, là điều chính đáng, vì các nơi thánh nhất tại Jerusalem đã bị tàn phá 70 năm sau Chúa Kitô”. Phần lớn các thánh tích và các bảo vật khác tại nhà nguyện Sancta Sanctorum này được đưa về Vatican hồi năm 1905.
Nhưng tại đây vẫn còn một vật huyền bí mà dân Roma rất quí chuộng, và là một vật trong số rất ít bảo vật các tín hữu hành hương có thể nhìn thấy qua chấn song, đó là bức ảnh Chúa Kitô bằng bạc có gắn đá quí được mang trong các cuộc rước của ĐGH qua các đường phố ở Roma hồi năm 756, do ĐGH Stephano II chủ sự, để cầu xin Chúa bảo vệ thành Roma chống lại cuộc xâm lăng của người Lombardi. Bức ảnh theo kiểu Bizantine này được gọi là “Acheiropoieton”, nghĩa là “không do tay người phàm vẽ ra”. Vẫn theo lời cha Fioravanti, “Một số người dân ở Roma này không biết đền thờ thánh Phêrô ở đâu, nhưng tất cả đều biết Thang Thánh”. Vào mùa Chay, các sứ đạo ở Roma thường tổ chức hành hương tại Thang Thánh để cầu nguyện và thực thi việc bác ái đền tội bằng cách quì leo lên Thang này bằng đầu gối. Họ cũng xưng tội và tham dự thánh lễ tại đây.
Điều chắc chắn là các bậc Thang Thánh không được chế tạo tại Roma hay tại một thành thị nào khác ở Tây phương, vì Thang này được làm bằng thứ cẩm thạch chỉ có ở Trung Đông. Nhưng mà có thật là Thang này được Chúa Giêsu leo lên 3 lần hay không? Cha Fioravanti nói: “Chúng ta nên nhớ rằng quan niệm thời Trung Cổ về các thánh tích khác với quan niệm của chung ta ngày nay. Đối với chúng ta, thánh tích là cái gì chắc chắn thuộc về Chúa Giêsu, Đức Mẹ hay một vị thánh, hoặc đã được các ngài đụng chạm tới, nếu không thì chẳng có giá trị gì. Trái lại, đối với các tín hữu thời Trung Cổ, thánh tích là một biểu tượng đưa tâm trí chúng ta hướng về Chúa Giêsu, Mẹ Maria hoặc một vị thánh”.
Trong một cuộc hướng dẫn khách hành hương, cha Fioravanti lấy tay chỉ vào những vết lõm trên đá cẩm thạch quanh bàn thờ ở nhà nguyện và nói rằng: “Các bạn có biết bao nhiêu ngàn khách hành hương đã đi qua đây, cầu nguyện tại đây và để lại những dấu vết này hay không?”.
CHƯƠNG IX
NHỮNG BẢO TÀNG VIỆN VATICAN I. LỊCH SỬ
Năm 1308, đền thờ Laterano bị hỏa hoạn không sửa được nữa. Năm 1377 khi từ Avignon trở về, ĐGH Gregorio 9 đến sống tại đây và từ đó điện Vatican thay thế điện Laterano. Năm 1450, ĐGH Nicola 5 hoàn tất công trình xây cất dinh thự điện Vatican. Bên trong trang hoàng nhiều kiểu nghệ thuật Toscana đầu thời Phục Hưng. Trong số các nghệ sĩ tên tuổi có chân phước Angelico, dòng Đaminh (1400- 1455). ĐGH Sisto 4 sửa sang lại thư viện và cho xây nhà nguyện Sistina. Thư viện và các bảo tàng viện Vatican là hai kho tàng quí báo nhất của nhân loại. Cả hai mang vết tích của văn hóa Hy Lạp và La Mã diễn tả sáng tạo của con người ở trình độ cao nhất và nhờ nghệ thuật biểu lộ hình ảnh dự báo của Kitô giáo tại Tây phương. Những bảo tàng viện bắt nguồn từ sân của ĐGH Innocentio 8. Belvedere Palace với những tác phẩm điêu khắc cổ điển như thần Apolo, Venus, Lacoon, sông nile, sông Tiber, Adriane ngủ… Đức Giáo Hoàng Sisto 6 bắt đầu thu góp vào năm 1475 cho đến năm 1555. Tinh thần chống đối Phục Hưng (Counter-Reformation) cùng với những lối nhìn luân lý chống đối nghệ thuật cổ điển đã làm cho việc thu góp Vatican bị đóng lại. Tuy nhiên, nhấn mạnh mới về việc bảo vệ đức tin đã tạo ra nền tảng mới cho việc học hỏi nghệ thuật cổ điển được cả giới lịch sử lẫn khảo cổ cộng tác. Năm 1756, ĐGH Benedict 14 thiết lập Bảo Tàng Viện Kitô giáo của thư viện để “làm gia tăng vẽ đẹp của thành đô làm chứng cho chân lý tôn giáo qua các dinh thự Kitô thánh”. Năm 1767, ĐGH thành lập bảo tàng viện ngoại giáo để giữ gìn những dinh thự của thời Roma cổ.
Tôn giáo bao gồm những đạo lý siêu nhiên trừu tượng về Thiên Chúa được diễn tả qua các nghệ thuật con người điêu khắc, hội họa, kiến trúc… để diễn tả vẽ đẹp sáng tạo của Thiên Chúa theo trí tuệ và tâm hồn con người thuộc các thời đại.
Nghệ thuật diễn tả những ý niệm trừu tượng khó hiểu ở mức độ con người có thể thấu hiểu và cảm nhận được, đồng thời làm con người gần gũi hơn với Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa thường bị xem là xa cách với con người. Nghệ thuật này diễn tả những ý niệm thánh thiện của tôn giáo nên được gọi là nghệ thuật thánh, đồng thời cũng được gọi là nghệ thuật thánh vì nó đã đạt tới mức độ thánh thiện chứ không còn ở mức độ trần tục nữa. Những bảo tàng viện Vatican là một trong những kho tàng văn hóa nghệ thuật và tôn giáo danh tiếng nhất thế giới. Chúng ta phải dành ít nhiều thời giờ mới có thể thăm viếng và thưởng thức được giá trị của kho tàng này. Ngày Chúa nhật cuối tháng, những bảo tàng viện Vatican mở cửa miễn phí.
Trước đây, du khách du khách hành hương bước vào những bảo tàng viện Vatican qua một cầu thang hình tôn ốc hai chiều do G. Momo xây với những hình chạm bằng đồng của A. Marani. Nhân dịp Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha cho mở thêm cổng vào rộng lớn hơn với những phương tiện cần thiết cho những người tàn tật có thể sử dụng. Khi bước vào, du khách hành hương thấy trên tường những dấu tích các bức khảm đá màu cũng như chân dung và tượng của các thần linh vào 3 thế kỷ đầu sau Tây lịch.
III. ĐẶC TÍNH CỦA MỖI BẢO TÀNG VIỆN
Mỗi bảo tàng viện hoặc mỗi phòng triển lãm đều chứa đựng nhiều tác phẩm nghệ thuật lịch sử, tôn giáo nghệ thuật rất giá trị. Du khách có thể bỏ nhiều thời giờ để thăm viếng, học hỏi, chiêm ngưỡng và thưởng thức những công trình quí giá được thu thập tại đây. Càng hiểu biết về lịch sử, nghệ thuật, tôn giáo du khách càng có thể thưởng thức được những giá trị quí giá nơi mỗi tác phẩm. Chúng tôi chỉ xin giới thiệu những bảo tàng viện, phòng triển lãm và những nơi mà du khách cần thăm viếng trong chuyến du lịch hành hương.
1. Phòng Pinocoteca
ĐGH Pio 7 cho xây để trưng bày các tranh ảnh do nước Pháp trả lại cho Tòa Thánh vào năm 1815 cũng như những tác phẩm hội họa lấy từ thư viện và các điện Laterano cũng như Vatican. Pinoteca gồm 15 phòng trưng bày các tranh ảnh. Phòng 1 gồm các tranh ảnh của thời Italia cổ. Phòng 2 trưng bày các tác phẩm của danh họa Gioto và các trường phái Gôtích sau này. Phòng 3 trưng bày các bức tranh của thầy chân phước Angelio, Filippo Lippi và Benozzo. Phòng 4 của Melozzo da Forli và Marco Palmezzano. Phòng 5 của thế kỷ 14. Phòng 6 gồm các bức tranh vẽ trên bàn thờ. Phòng 7 của các họa sĩ thuộc trường phái Umbria. Phòng 8 gồm các tranh của danh họa Raffaello sanzio. Phòng 9 của danh họa Leonardo da Vinci và của các họa sĩ thuộc thế kỷ 15.
2. Bảo tàng viện Ai Cập Gregorio
ĐGH Gregorio 16 xây cất năm 1839 để chứa các di tích lấy từ nhiều bảo tàng viện khác cũng như từ biệt thự của hoàng đế Adriano ở tivoli. Bảo tàng viện này gồm các tác phẩm, đồ vật, quan tài và xác ướp cùng lễ nghi chôn cất với các câu thần chú và các đoạn trích trong sách Người Chết theo triết lý nhân sinh của Ai Cập thời cổ trước Tây lịch.
Bảo tàng viện Ai Cập gồm 10 phòng. Phòng 1 trang hoàng theo cảnh trí của phòng dẫn vào mộ phần. Phòng 2 trưng bày các kiểu trang hoàng mộ phần đào sâu dưới đất tại thung lũng của các vua chúa Ai Cập. Du khách hành hương có thể nhìn thấy những quan tài bằng đá huyền vũ nằm chung quanh có những bình đựng ruột của người chết khi ướp xác. Phòng 3 những quan tài bằng gỗ có vẽ các cảnh diễn tả nghi lễ an táng với các câu thần chú và các đoạn trích trong sách Người Chết. Phòng 4 trang hoàng các tác phẩm nghệ thuật Roma vào 3 thế kỷ đầu Tây Lịch bắt chước nghệ thuật Ai Cập. Phần lớn lấy từ biệt thự của hoàng đế Adriano ở Tivoli. Phòng 5 có nhiều quan tài bằng gỗ. Trước lồng kính là Người Đẹp (La Bella). Ngai Của một bức tượng Raphao Ramses 2. Chính giữa hành lang bán nguyệt là bức tượng khổng lồ của hoàng hậu Tula, mẹ vua Ramses 2. Đầu bằng sa thạch sơn màu của Pharao Mentuhoptep vào năm 2054 đến 2008 trước Tây lịch. Ba bức tựong khổng lồ bằng nham thạch thời Ptolemée. Tượng Ptolemalos 2 Philadelphos (258- 247). Phòng 6 gồm xác ướp của các con vật thánh (mèo, chim ưng và rắn). Các vật bùa chú bằng đồng và bằng các chất khác nhau. Bình hương, đồ trang sức hình bọ hung… cảnh người nô lệ phục vụ người chết. Phòng 7 diễn tả các người chết chôn trong phần mộ để họ làm thay cho người chết. Phòng 8 có tượng của thầy tư tế sống vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch. Phòng 9 với các bản văn viết trên giấy làm bằng sậy Papyrus diễn tả về thế giới người chết, những suy tư, lời cầu nguyện… Phòng 10 trưng bày các tác phẩm thời Ai Cập bị Hồi giáo xâm chiếm.
3. Bảo tàng viện Pio Clementinô
Do hai ĐGH Clemente 14 và Piô 6 xây hồi thế kỷ 18 để trung bày các tác phẩm điêu khắc thuộc thời Hy Lạp và Roma cổ. Phòng hình thánh giá Hy Lạp hai bên cửa vào với hai người sư tử bằng nham thạch đỏ xám thuộc thế kỷ 1-3, trên nền gạch 3 bức khảm đá màu: Nữ thần Minerva cầm thuẫn, giỏ hoa, thần ăn nhậu Bacchus. Cánh trái: quan tài đá vân đỏ của công chúa Costantina, con gái hoàng đế Constantino năm 350- 360. Cảnh chạm nổi cành nho và các trẻ em hái nho. Bên cạnh là tượng hoàng đế Augustô. Chính giữa là bức khảm đá màu nữ thần Athana thuộc thế kỷ thứ 3. Bên cánh trái là quan tài đá vân đỏ của thánh Hêlen, mẹ của hoàng đế Constantino thuộc thế kỷ thứ 4. Cảnh chạm nổi các kỵ sĩ và đám tù binh, chân dung của hoàng đế Constantino và thánh Hêlen.
Phòng tròn do Simonetti xây năm 1780: nền có bức khảm đá màu otrcoli, diễn tả cảnh người Hy Lạp đánh nhau với các quái vật mình người đầu ngựa, ốc len và nữ hải nhân. Chính giữa phòng là một cái bình khổng lồ chu vi 13 thước bằng đá vân nguyên khối, trước đây đặt trong nhà vàng (domus aurea) của hoàng đế Nêrô. Bên trái: chiếc đầu khổng lồ của hoàng hậu Plotina, vợ của hoàng đế Traiano (tạc năm 129), tượng nữ thần Juno Sospita (thế kỷ 2), tượng bán thân khổng lồ của Entinous chết tại sông Nile năm 130 được phong thần, tượng khổng lồ của thần Hercules bằng đồng mạ vàng (thế kỷ 2). Đầu khổng lồ của hoàng đế Adriano, tượng một nữ thần tạc theo nguyên tác Hy Lạp thuộc năm 420 trước Tây lịch, tượng thần hộ mạng của hoàng đế Augustô.
Phòng Muse cũng do Simonetti xây gồm các bức vẽ trên trần của Tommaso Conca diễn tả tượng thần Apolo, các nàng thơ, thỉ sĩ giống như những bức tượng trưng bày trong phòng. Giữa là tượng bán thân Belvedere do Apollonius tạc. Các bức tượng gần tường là tượng 7 nàng thơ do thần Apolo dẫn đầu. Biệt thự Tivoli còn giữ lại những bức tượng của các triết gia, thi sĩ và diễn thuyết gia Hy Lạp sống thời trước Tây lịch như Pericles, Bias, Periander, Alschines, Homer, Sokrates, Platon, Euripides, Epikus…
Phòng các súc vật trưng bày tượng súc vật hay các cảnh liên quan đến súc vật… Trên nền là bức khảm đá màu diễn tả cảnh sống của dân Roma (thế kỷ 4). Thần biển Triton bắt một nử hải thần (thế kỷ 1 trước Tây lịch). Thần Mithras giết con quái vật nguyên thủy… Phòng các tượng do Belvedere xây cho ĐGH Innocente 8. Tượng Adriana đang ngủ (thế kỷ 2) tạc theo nguyên tác Hy Lạp (thuộc thế kỷ 2 trước Tây lịch), đối diện là tượng Satyr đang nghỉ, bên phải là tượng Triton, thần nước (thế kỷ 2 trước Tây lịch), phía cuối hành lang bên phải là Apolo Saroktonos đang rình giết một con báo. Một quan tài chạm nổi cảnh người khổng lồ chân rắn đánh nhau với các thần linh, tượng các thần Jupiter, Juno, Mars, Mercury, Venus, Minverva…
Phòng các tượng bán thân: gồm các tượng thần và các hoàng đế của Roma như Julius Caesar, Augustus, Titus, Tralan, Atinius Pius, Marcus Aurelius, Commodus và Caracalla…
Phòng Laocoonte: do nhà điêu khắc Hagesandros thnàh Phodes và các con của ông tạc vào khoảng 50 năm trước Tây lịch. Một tác phẩm nổi tiến diễn tả cảnh thi sĩ Virgile trong tác phẩm Eneide như sau: Lacoon là thầy tư tế của thần Apolo ngăn cản dân chúng Hy Lạp đừng đem con ngựa gỗ vào để chiếm thành Troyes. Quân lính của Hy Lạp núp trong con ngựa gỗ làm nội ứng nên đã ra mở cửa thành. Thần Apolo nổi giận nên đã sai hai con rắn đến cắn ông và hai con. Ông dùng hết sức để kéo con rắn đang cắn ở hông mình ra. Con rắn kia đã cắn vào hông chú bé nên đau đớn. Bức tượng điêu khắc với những nét tinh vi sống động này được tìm thấy vào nâm giữa “nhà vàng” của hoàng đế Nerone và nhà tắm của hoàng đế Titus. Tác phẩm này ảnh hưởng rất nhiều đến nghệ thuật thời Phục Hưng.
Phòng Apoxyomenos trưng bày một lực sĩ đang phủi bụi trên mình (thế kỷ 1). Bàn thờ dâng kính hoàng đế Augustus trong tư cách là thầy cả thượng phẩm (có từ thế kỷ 12 trước Tây lịch). Thần Victoria cầm thuẩn có khắc câu “Thượng viện và dân chúng Roma dâng kính bàn thờ này cho hoàng đế Augustus”.
4. Bảo tàng viện Chiaramonti
Viện bảo tàng này trưng bày hàng ngàn bức tượng đủ loại: các thần linh, bàn thờ, trang trí, quan tài bằng đá. Đồng thời, còn có các bức tranh vẽ về đời sống của ĐGH Pio 7 là vị thành lập viện bảo tàng này gom góp nhiều tác phẩm từ các nơi, đặc biệt là có phòng giữ hơn 5 ngàn tấm đá có khắc chữ, các bức tranh vẽ trên vòm dinh thự rất mỹ thuật diễn tả về các thần linh cũng như các hoàng đế của đế quốc Roma. Du khách không thể nào bỏ qua cổ xe chiến thắng do hai con ngựa kéo (Biga) bằng cẩm thạch tuyệt đẹp thuộc thế kỷ 1. Vào thời trung Cổ, ghế được ĐGH ngồi tại đền thờ thánh Marcô.
5. Bảo tàng viện Etrusco
ĐGH Gregoriô 16 xây vào năm 1837 để trình bày các tác phẩm và các di tích của dân tộc Etrus tìm thấy trong các cuộc khảo cổ vào năm 1828- 1839. Sưu tầm bình cổ Hy Lạp và Italia cũng như từ các thành phố Roma và Latium.
Phòng các quan tài gồm nhiều các quan tài và mộ phần thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch đến thế kỷ thứ 3. Một quan tài thuộc vùng Vilci (thế kỷ 6 trước Tây lịch) với hai con sư tử vì người Etrus có thói quen đặt hai con sư tử ở hai bên lối vào mộ để chúng canh chừng những người chết. Quan tài vùng Tuscana (thế kỷ 2 trước Tây lịch) của một vị tướng với cảnh tàn sát quân Niobides. Một quan tài (thế kỷ 2 trước Tây lịch) bằng đá vôi với những chạm trổ thuộc vùng Cerveteri. Quan tài của công chức chính phủ có ghi lại tên tuổi và sự nghiệp (thế kỷ 3 trước Tây lịch). Tượng Lasa bằng sa thạch là nữ thần của thế giới người chết đối với dân tộc Etrus.
Phong đất nung trưng bày các đồ dùng bằng đất sét nung. Có nhiều bình đựng tro xác người chết tìm thấy tại Tarquinia và Vulci thuộc các thế kỷ 9 và 10 trước Tây lịch. Loại bình Villanova rất thông dụng trong vùng Etruria và loại bình đựng tro người chết hình cái lều được dân chúng vùng Latium biết đến.
Phòng các tác phẩm nguyên thủy Hy Lạp: Bữa tiệc của người chết (thuộc thế kỷ 4 trước Tây lịch) với hình của thần chết Hades và các người thờ lập. Người hùng cưỡi ngựa, bàn thờ và dân chúng thờ lạy (thuộc thế kỷ 4 trước Tây lịch). Thần Asklepios và con gái Hygieia cùng đoàn người thờ lạy (thế kỷ 4 trước Tây lịch).
6. Phòng triển lãm các chân đèn gồm 6 gian trưng bày các chân đèn
Ngoài các bức tranh vẽ trên trần do Domenico Torti và Ludwig Seitz vẽ vào các năm 1883- 1887 dưới thời ĐGH Leo 13, và quan tài bằng đá của trẻ em với nắp có hình chạm trổ và những bức tượng của các thần linh, du khách thấy chân đèn tìm thấy tại Otricolli thuộc thế kỷ 2 cũng như các chân đèn khác cùng thời.
7. Phòng triển lãm các bức thảm
Các bức thảm do ông Pieter van Aeist dệt tại Bỉ thuộc thế kỷ 16 theo các bức vẽ của học trò danh họa Raffaello. Những bức thảm này thuộc về Trường Phái Mới để phân biệt với những bức thảm thuộc trường phái cũ do chính danh họa Raffaelo thực hiện được trưng bày tại Pinacoteca. Phía tường đối diện cửa sổ: các mục đồng đến thờ lạy Chúa Hài Đồng. Ba vua thờ lạy Chúa. Dâng Chúa Giêsu trong đền thờ. Vua Hêrôdê ra lệnh giết các trẻ em tại Belem (gồm 3 bức). Chúa Kitô phục sinh. Chúa Kitô hiên ra với bà Maria Madalena. Chúa Giêsu ăn bữa tối với hai môn đệ tại làng Emmaus. Chúa Giêsu lên trời. Phía cửa sổ: Cuộc sống của ĐGH Urbano 8 do xưởng Baberini làm hồi thế kỷ 17. Dàn xếp tranh chấp về Trsimeno. Maffeo Barberini được ĐGH Phaolô 5 phong làm Hồng Y. ĐHY Maffeo Barberini được bầu làm Giáo Hoàng với danh hiệu là Urbano 8. Nữ quận công Mathilde dâng gia tài cho Tòa Thánh. ĐGH Urbano 8 khởi công xây pháo đài Urbano. Quân lính Roma Comelius trở lại.
8. Phòng triển lãm các bản đồ địa lý
Phòng dài 120 thước trưng bày các bản đồ địa lý do linh mục Ignazio Danti, dòng Đaminh chuyên viên toán học, vũ trụ học và kiến trúc gia nổi tiếng, vẽ vào thời gian 1580- 1583. Bốn mươi bức tranh diễn tả các vùng trong nước Italia, Corfu và Malta. Trần hành lang rất đẹp với các bức họa về các thánh xuất thân từ các vùng địa lý diễn tả trong bản đồ. Những bức họa này do trường phái Manierista dưới sự hướng dẫn của danh họa Girolamo Muzianos thành Brescia.
9. Phòng và nhà nguyện Pio 5
Tranh sơn dầu: Thánh sử Gioan (th 16), bức thảm dệt tại xưởng Bruegger (tk 16). Tranh sơn dầu chân dung thánh Giáo Hoàng Pio 5. Các thảm diễn tả: khoa chiêm tinh, âm nhạc, văn phạm…
Phòng này cũng trưng bày các bức thảm danh tiếng (tk15, 16), trên cửa là bức tán của ĐGH Urbano 8, và trên vách đối diện: cuộc tử nạn của Chúa Kitô, các mầu nhiệm về đức tin, cảnh đội triều thiên cho Đức Mẹ, Đức Tin, Đức Công Bằng và Yêu Thương. Nhà nguyện riêng của ĐGH Piô 5 này nằm giữa ba nhà nguyện chồng lên nhau.
10. Phòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
Các bức tranh do họa sĩ Frgancesco Podesti thành Ancona vẽ kỷ niệm ĐGH Pio 9 tuyên bố tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 2.12.1854. Chính giữa phòng là đồ hình mái tròn đền thờ thánh Phêrô bằng gỗ làm năm 1561 cùng những bìa sách trang trí mỹ thuật hình Đức Mẹ.
11. Phòng của Raffaello
Họa sĩ Raffaello thuộc dinh ĐGH Niccolo 5. Raffaello vẽ rất đẹp đến nỗi ĐGH ra lệnh hủy bỏ các bức vẽ có trước và để ông vẽ lại tất cả. Raffaello vẽ hai phòng là Stanza della Segnatura (1509- 1511) và Stanza d’Eliodoro.
12. Phòng về hỏa hoạn Borgo- stanza dell’incendio di Borgo (1514- 1715)
Raffaello muốn vẽ các bức tranh để tôn vinh quyền bính của Giáo Hoàng qua gương mặt của ĐGH Leo 10 đang cai quản và các vị tiền nhiệm Leo 3 và Leo 4. Bức tranh của lễ đội vương miện cho hoàng đế Charlemange trong đền thờ thánh Phêrô qua tay ĐGH Leo 3 vào năm 800, ám chỉ cuộc thỏa hiệp của Đức Leo 10 và vua Pháp François 1 vào năm 1515.
Năm 847 khu phố Santo Spirito nằm bên trái đền thờ thánh Phêrô bị hỏa hoạn, từ bao lơn ĐGH Leone 4 làm dấu thánh giá và tự nhiên đám cháy bị dập tắc. Bức tranh ám chỉ nổ lực của Leone 9 đem lại hòa bình cho nước Italia. Trận hỏa hoạn đe dọa thiêu rụi đền thờ thánh Phêrô: Bên trái là trận hỏa hoạn thành Troy. Năm 849, ĐGH Leone 4 chiến thắng quân Sanasin tại cảng Ostia và tuyên bố thành lập Đạo Binh Thánh Giá chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ trước sự hiện diện của hoàng đế Lothaire và các Hồng Y. ĐGH Leo 3 giải thích vào ngày 23 tháng 12 năm 800 chống lại tố cáo sai lạc với những dòng chữ ở dưới bức tranh: “Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền xét xử Giám Mục mà thôi, con người không có quyền đó”.
13. Phòng sắc lệnh Stanza della Segnatura (1509- 1511)
Phòng ký sắc lệnh và chiếu chỉ. Phòng này xưa là thư viện riêng của ĐGH Giulio 2. Tranh luận về phép Thánh Thể. Nhưng đề tài thực sự của bức tranh là tôn vinh Giáo Hội chiến đấu và thắng trận. Trên cao là Thiên Chúa Cha với các thiên thần bao quanh. Trên bầu trời có Chúa Kitô, Đức Mẹ Maria, thánh Gioan Tiền Hô. Dưới là Chúa Thánh Thần hai bên có hai thiên thần cầm các sách Phúc Âm. Bên trái là thánh Phêrô, Adong, thánh sử Gioan, vua Đavít, thánh Lorenso và có lẽ là ngôn sứ Gieremia. Bên phải là thánh Phaolô, tổ phụ Abraham, thánh Giacobe, ông Môisen, thánh Sêbastianô và một nhân vật Cựu ước. Dưới đất: ở chính giữa là bàn thờ có đặt mặt nhật giữ Mình Thánh Chúa. Bên trái là thánh Gregoriô, thánh Giralamo (ngồi), các Giám Mục và các tu sĩ trong đó có Angelico, Bramante đang chỉ một cuốn sách. Bên trái là thánh Ambrosio, thánh Amostino (ngồi), thánh Tomas Aquino, ĐGH Innocente 3, thánh Bonaventura, ĐGH Sisto 4, thi sĩ Dante. Phía trái: dân chúng tế lễ, thánh Augustino và đứa bé ở bãi biển. Bà bói toán cho hoàng đế Augusto thấy Đức Mẹ Maira.
Trên cửa sổ vẽ 3 nhân đức Khôn Ngoan, Tiết Độ, Dũng Cảm. ĐGH Gregorio 9 trao cho thánh Raymondo di Peđafort các sắc lệnh tượng trưng cho Giáo luật… Hoàng đế Giuliano công bố Dân luật. Maisen đem hai bảng luật xuống cho dân Do Thái. Trường phái Athen: chiến thắng của Triết học đối diện với chiến thắng của Thần học. Trên những bậc thang của đền thờ, các môn đệ đứng chung quanh hai triết gia nổi tiếng là Platon và Aristote. Bên cạnh Platon là Socrate. Aristote thản nhiên chỉ vào thiên nhiên. Các triết gia chia làm hai phái theo triết lý của họ.
Bên trên bức họa về Thánh Thể là Khoa Thần Học tranh luận về “phép Thánh Thể”. Tội nguyên tổ của Adong và Evà. Bên trái: công bằng với cán cân và lưỡi gươm công lý. Bên cạnh là cảnh vua Salomon sử án. Khoa triết học (bên trên bức họa trường phái Athenes). Bốn màu xanh da trời, đỏ, xanh lá cây và vàng tượng trưng cho bốn nhân tố Khí, Lửa, Nước, Đất. Tiếp theo là khoa Chiêm Tinh và Thơ Văn.
14. Phòng của Raffaello
Sau khi Bramante qua đời, Rafaello tiếp tục và hoàn thành dưới thời ĐGH Leo 10. Hành lang gồm tất cả 13 gian gồm 52 bức tranh diễn tả 48 cảnh từ Cựu ước và 4 cảnh từ Tân ước. chung quanh các bức tranh có trang hoàng hoa lá, cây cỏ, súc vật và chim chóc, hình người và các dụng cụ.
15. Nhà nguyện Niccò
Nhà nguyện nhỏ này được chân phước Angelico, dòng Đaminh vẽ vào các năm 1448- 1450. Các bức vẽ diễn tả cuộc sống của hai thánh Stefano và Lorenzo. Từ phía trái sang: Stefano được thánh Phêrô truyền chức phó tế. Stefano chân phát của bố thí cho người nghèo. Lorenzo được ĐGH Sesto 2 trao phó coi kho tàng Giáo Hội để phân phát giúp cho người nghèo. Stefano bị bắt và bị ném đá. Lorenzo bị hoàng đế Decius bỏ tù và hành quyết. Trên trần là 4 thánh sử và 4 con vật biểu hiệu. Hình các thánh Giáo phụ trên các cột.
16. Nghệ thuật tôn giáo tân thời
ĐGH Phaolô 6 mở năm 1973 để trưng bày các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo tân thời gồm hội họa, điêu khắc… các tác phẩm này do các tác giả biếu tặng Tòa Thánh.
17. Nhà nguyện Sistina
Nhà nguyện dài 40 mét 30 và rong65 13,20 do ĐGH Sesto 4 xây vào những năm 1473- 1481 theo đồ họa của Baccio Pontelh. Các bức tranh trên tường được vẽ vào những năm 1481- 1483. Kể từ đó trở thành nhà nguyện riêng của các Đức Giáo Hoàng. Các cuộc bầu của Giáo Hoàng và nhiều lễ nghi quan trọng đều được tổ chức tại đây. Nhà nguyện nổi tiếng cũng vì đây là nơi các Hồng Y bầu Giáo Hoàng cũng như nhờ các bức vẽ trên tường. Michelangelo đã dùng tài năng siêu việt của mình để diễn tả cuộc sống con người từ lúc tạo dựng đến khi bị phán xét trước ngai tòa Thiên Chúa. Du khách cần dành nhiều thời giờ để chiêm ngưỡng công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa đã thực hiện dưới nét vẽ tài tình của danh họa Michelangelo, thiên tài của thời đại ông cũng như của mọi thời đại.
Các bức tranh bên bức tường trái kể lại cuộc đời của ông Maisen (bắt đầu từ phía bàn thờ):
- Maisen và vợ ông bên Ai Cập
- Lễ cắt bì cho con họ
- Những biến cố chính trong cuộc đời của ông Maisen: đánh giết một người Ai Cập, đuổi bọn mục tử ở Madian không cho con gái ông Jetro đến múc nước.
- Thiên Chúa hiện ra với ông trong bụi gai cháy và truyền cho ông dẫn dắt dân Ngài Ra khỏi Ai Cập
- Vượt qua Biển Đỏ
- Maisen trên núi; Maisen nhận hai bảng Luật; dân Do Thái thờ con bò vàng
- Thiên Chúa trừng phạt Nathan, Coré và Abiron
- Maisen trao gậy cho Giô-shua; dân Do Thái than khóc Maisen qua đời.
Các bức tranh bên bức tường phải kể lại cuộc đời Chúa Giêsu:
- Chúa Giêsu lãnh phép rửa bên sông Giođan
- Chúa Giêsu chữa người phong cùi
- Chúa Giêsu chịu cám dỗ
- Chúa Giêsu gọi 2 tông đồ Phêrô và Anrê
- Chúa Giêsu giảng Tám Mối Phúc Thật
- Chúa Giêsu trao chìa khóa cho Phêrô
- Bữa tiệc ly
Trên tường cuối nhà nguyện: Chúa Kitô phục sinh (Ghirlandaio vẽ) và thánh Micae chở xác Maisen (Signorelli vẽ).
Hai bên các vòm cửa sổ là hình 24 vị Giáo Hoàng tiên khởi của Giáo Hội (do Diamante, Ghirlendaio, Botticelli và Roselli vẽ).
Những bức tranh vẽ trên trần:
Trần nhà nguyện ban đầu chỉ có bầu trời. Sau này, ĐGH Giulio 2 trao cho Michaello vẽ. Ông khởi công ngày 10.5.1508 và hoàn thành ngày 31.10.1512. Các bức tranh thuật lại công trình sáng tạo vũ trụ từ ban đầu cho đến thời lụt Hồng Thủy. Michaello bắt đầu vẽ từ cuối nhà nguyện:
- Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng ra khỏi bóng tối
- Thiên Chúa dựng nên mặt trời, mặt trăng và thảo mộc trên trái đất
- Thiên Chúa tạo dựng nên con người. Ngài giơ tay đụng đến con người để ban thần khí cho thân xác con người. Thiên Chúa tạo dựng người nữ từ cạnh sườn Adong đang ngủ say.
- Adongvà Evà bị đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng vì đã phạm tội chống lại Thiên Chúa. Chính giữa là cây biết lành biết dữ có con rắn quấn quanh. Adong và Evà ăn trái cấm. Thiên thần cầm gươm đuổi hai ông bà ra khỏi vườn.
- Noe dâng lễ tế Chúa
- Lụt Đại Hồng Thủy. Con người thất vọng tìm đường thoát thân trong khi nước lụt dâng lên cao mãi.
- Noe say rượu.
Tiếp đến là các vị ngôn sứ và các vị chiêm tinh (bói toán) có biệt tài ức đóa tương lai quá khứ. Họ tượng trưng cho tất cả các nhân vật khôn ngoan thuộc mọi thời đại biết trước việc Đấng Cứu Thế sẽ đến và loan báo cho mọi người biết Ngài sẽ đến.
Những bức tranh vẽ chung quanh tường bắt đầu từ phía bên phải:
- Ngôn sứ Giêrêmia đang trầm tư mặc tưởng đau lòng khi suy nghĩ về số phận thành thánh Giêrusalem
- Bà bói toán (Sibylle) nước Ba Tư đang đọc sách
- Ngôn sứ Êgiêkielb tay cầm một văn bản viết trên giấy làm bằng lá dừa (Papirus)
- Bà bói toán Erythrée đang mở từng trang sách
- Ngôn sứ Giôel đang đọc sách
- Ngôn sứ Giacaria đang dở một văn bản
- Ngôn sứ Isaia ngẩng đầu nhìn một thiên thần đang gọi ông
- Bà bói toán Cumana đang mở sách
- Ngôn sứ Đaniel đang viết, một thiên thần nhỏ cầm sách cho ông
- Thầy bói Lybia lên ngai ngồi
- Ngôn sứ Giôna ngạc nhiên vì được cá voi nhả ra khỏi bụng
Những bức tranh vẽ trên bốn góc tường:
Trên bốn góc của trần nhà nguyện có bốn cảnh lấy từ Kinh Thánh Cựu ước liên quan đến ơn cứu rỗi của dân Do Thái: (bên trái) Haman bị phạt vì muốn trận diệt dân Do Thái; (bên phải) Con rắn đồng được Maisen treo cao trong sa mạc. (Bên trái cuối nhà nguyện) Giuđít chặt đầu Holophemes, Đavít giết Goliát.
Bên trên các cửa sổ là hình các nhân vật Cựu ước, tổ phụ Chúa Giêsu.
Bức tranh “Ngày phán xét chung”
Hai mươi ba năm sau Michelangelo bít hai cửa sổ trên tường cũng như xóa các bức hình cũ để vẽ cảnh “Ngày phán xét chung” khi ông đã 60 tuổi trong vòng 6 năm 1535- 1541, dưới thời Đức Giáo Hoàng Phaolô 3. Bức họa “Ngày phán xét chung” cao 20 thước và rộng 10 thước. Michelangelo dùng hết khả năng hội họa của ông để diễn tả Thiên Chúa ngự trên ngai vinh hiển phẩn nộ phán xét mọi loại trong ngày phán xét chung. Trên cùng là cảnh thiên thần khải hoàn mang thánh giá và cây cột Chúa Giêsu bị quân lính Roma buộc vào để đánh đòn: hai dụng cụ tượng trung cho ơn cứu rỗi. Chính giữa là Chúa Kitô trong tư thế phán xét, đuổi những người bị án phạt ra khỏi mặt Ngài. Đứng bên cạnh là Mẹ Maria và chung quanh là các thánh. Bên trái là thánh Anrê với thập giá, thánh Lorenxo với cái vỉ sắc mà thánh nhân đã bị thêu sống. Bên phải là thánh Phêrô cầm chìa khóa và thánh Bartolomeo đang nhìn nắm da đã bị lột khi ngài chịu tử đạo. Thánh nhân cầm trong tay cái hình đầu người méo mó là Michaelangelo. Giữa trời và đất là nhóm thiên thần cầm loa báo hiệu ngày trận thế, ngày Thiên Chúa xét sử vũ trụ và loài người. Bên phải là những người lành được cứu rỗi đang lên Thiên Đàng: mặc dù ma quỉ tìm cách ngăn cản họ. Bên trái là những người dữ bị rơi xuống hỏa ngục mặc dù họ tìm cách cưỡng lại. Phía dưới là thần Charon đợi sẵn trên thuyền để chở họ đến với thần Minos là quan án tại hỏa ngục. Đây là hai nhân vật thần thoại Michaelangelo lấy lại của thi sĩ Dante. Minos có tai lừa nhưng gương mặt giống như Baggio de Cesena là vị chưởng nghi của ĐGH Phaolô 3, ỷ quyền chưởng nghi nên đã chửi mắng Michaelangelo khi trông thấy bức họa này. (Phía dưới bên trái) cảnh người chết sống lại khi nghe tiếng loa của các thiên thần. Trái đất rung chuyển, mồ mả mở tung và người chết đứng dậy.
18. Thư viện Giáo Hoàng
Phòng xin ân xá của Pio 9: Ngày xưa là phòng nhận các đơn xin ân xá đặc biệt của giáo dân. Áo lễ thời Trung Cổ, thời Roma, hai chiếc áo lễ quí thuộc kho tàng Sancta Santorum. Ngoài ra, còn những chiếc áo cổ trước thời hoàng đế Constantino và chiếc áo lễ hình tam giác của Giáo Hội Đông Phương. Nhiều tủ bằng kính, sứ hoặc sành, ngà voi hoặc kim loại. Bìa cuốn Phúc Âm bằng ngà voi làm năm 900. Chúa Kitô ngự trên nngai có 5 thánh Tông Đồ đứng chung quanh trước đây giữ tại bàn thờ Tuyên Xưng Đức Tin trong đền thờ thánh Phêrô. Các dụng cụ thánh dùng trong thánh lễ. ĐGH Clemente 14 giữ những bản viết trên lá cây sậy thuộc các thế kỷ 6 đến thứ 9. Nhiều chén lễ chạm trổ tinh vi thuộc các thế kỷ thứ 3 và 4. Có cả chén chạm trổ cảnh Chúa Giêsu làm cho Ladaro sống lại. ĐGH Benedicto giữ những đồ cổ được tìm thấy nơi các hang toại đạo: đèn dầu, dụng cụ, đồ dùng bằng bạc và ngà.
19. Bảo tàng viện truyền giáo và sắc dân
ĐGH Pio 11 thành lập tại dinh Laterano và mở cửa cho dân chúng vào coi năm 1927. ĐGH Gioan 23 mang về Vatican. Đa số những tác phẩm nghệ thuật do dòng tu truyền giáo hoặc các tư nhân biếu tặng Tòa Thánh Vatican.
20. Bảo tàng viện lịch sử
ĐGH Phaolô 6 mở cửa thư viện này để trình bày di tích các phương tiện di chuyển, quân dụng và quân trang của quân đội quốc gia Vatican. Du khách có thể nhìn thấy những áo choàng dành cho ngựa, đoàn hộ tống ĐGH, xe ngựa hoặc xe cộ màu khác nhau dùng cho những chuyến đi xa. Những chiếc kiệu nhung đỏ dùng cho các Giáo Hoàng. |
|