|

Ngày 22/1: Thánh Vincent Pallotti (1795-1850)
Phục vụ giới trẻ, bệnh nhân, tù nhân.
Thành lập Hội Tông Đồ Giáo Dân Pallottnes.
Mở màn cho phong trào Tông Đồ Giáo Dân.
Ngày 22 Tháng 1
Thánh Phanxicô FEDERICH TẾ
Linh mục dòng Đaminh
(1702 - 1745) 
Thánh Tử Đạo Tiên Khởi Trên Đất Việt
Bốn mươi ba tuổi đời, mười năm truyền giáo trên đất Việt, trong đó gần tám năm bị giam cầm, cuộc đời truyền giáo của Thánh Phanxicô Tế có vẻ không được thuận lợi, nhưng chính những năm tù này đã làm nên sự nghiệp của thánh nhân. Nhờ bối cảnh đặc biệt, vị linh mục dòng Thuyết giáo đã tiếp tục thi hành sứ vụ của mình ngay tại kinh đô Thăng Long. Cha vẫn đi thăm viếng và trao ban bí tích cho các giáo hữu, rửa tội cho nhiều tân tòng. Riêng năm 1744, cha giải tội cho 1745 người, rửa tội 73 người (trong đó có 32 người lớn) và xức dầu cho nhiều bệnh nhân. Thành quả đó của một “tù nhân” đủ cho mọi người thấy nhiệt tâm, tài năng và sự khéo léo của vị Thánh Tử đạo đầu tiên trên đất Việt.
Tuổi Xuân và Khát Vọng
Phanxicô Gil de Federich Tế sinh ngày 14.12.1702 tại Tortosa, Tây Ban Nha, quê hương của biết bao vị đại thánh và những vị thừa sai nổi tiếng. Được thừa hưởng truyền thống đạo đức đó, từ niên thiếu, cậu đã nhận ra tiếng Chúa mời gọi sống đời dâng hiến, và đã xin gia nhập dòng Đaminh. Sau một năm tập đầy nhiệt thành đạo đức, tu sĩ Federich tuyên khấn trọng thể tại tu viện Santa Catalina thành Barcelona khi mới mười sáu tuổi.
Sau nhiều năm học tập chăm chỉ, ngày 29.3.1727 thầy Federich được thụ phong linh mục, rồi được bổ nhiệm làm giáo sư triết lý kiêm giáo sư các tu sĩ sinh viên. Thế nhưng ước nguyện thâm sâu của tân linh mục lại là được đi truyền giáo ở phương xa. Hai năm sau, cha xin chuyển sang Tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi, là tỉnh dòng đặc trách việc truyền giáo ở Viễn Đông. Cha xuống tàu, đến trụ sở tỉnh dòng tại Phi Luật Tân năm 1733.
Cha Giám tỉnh Diego tại Manila rất quý trọng khả năng, đức độ của cha Federich, nên đã chọn cha làm thư ký và phụ tá cho mình. Trong công việc tham gia điều hành tại trụ sở, những tin tức ở các vùng truyền giáo nầy càng thúc đẩy cha thực hiện khát vọng truyền giáo. Những vần thơ cầu nguyện với Đức Maria của cha nói lên tâm tình đó:
“Lạy Thánh Mẫu cao vời nhân ái.
Tấm lòng con điên dại đáng thương.
Ngày đêm nung nấu can trường.
Tình bao la Mẹ, đâu phương đáp đền.
Trong tâm tưởng con hằng mong ước.
Khắp muôn phương loan báo Tin mừng.
Giờ con gặp cảnh sầu thương.
Như thuyền neo bến, trùng dương xa vời”.
Cuối cùng ước mơ cao đẹp này đã được thành tựu. Ngày 28.8.1735 cha Phanxicô đặt chân lên đất Việt Nam. Bấy giờ là thời vua Lê Ý Tông (1735-1739) và Uy Nam Vương Trịnh Giang (1729-1740).
Trên Cánh Đồng Truyền Giáo
Sau một thời gian ngắn học ngôn ngữ và phong tục, cha Federich Tế đã đến phục vụ tại nhiều nơi. Mới đầu ở huyện Trực Ninh (Nam Định) rồi Vũ Tiên (Thái Bình), sau đảm nhiệm hai giáo xứ Kẻ Mèn, Bắc Trạch; tiếp đó qua huyện Giao Thủy coi họ Lục Thủy và Quất Lâm.
Một hôm ở Quất Lâm cha đang giải tội, bỗng giáo dân chạy vào báo tin lương dân đang lùng bắt ngài. Cha Tế vẫn bình tĩnh cầu nguyện giây lát, rồi cứ tiếp tục giải tội. Sự bình tĩnh và bầu khí thiêng thánh của việc trao ban bí tích Hòa giải đã cứu cha. Những người vây bắt ngây người đứng nhìn một lát rồi rủ nhau giải tán.
Mối Giây Oan Nghiệt
Mới được hai năm hoạt động ngắn ngủi, cha Tế đã bị bắt ngày 3.8.1737. Theo sử sách, một nhà tu tên Tình vốn ghét đạo Công giáo, lại muốn tìm cách làm tiền. Nhà sư đã đến xin phép quan huyện Giao Thủy, rồi đưa người đến vây bắt các đạo trưởng ở làng Trung Linh. May là các linh mục ở đây biết trước nên trốn đi hết, nhưng sau đó nghe tin có đạo trưởng Âu châu ở họ Lục Thủy, nhà sư đem quân đến vây ngay lúc cha Tế vừa dâng thánh lễ xong. Để nguyện đường khỏi bị xúc phạm và giáo hữu khỏi liên lụy, cha tự nguyện ra nộp mình. Cha nói: “Các ông tìm bắt tôi, thì chính tôi đây. Xin hãy tha cho các giáo hữu của tôi”.
Khi nghe tin cha Tế bị giam giữ tại làng Thủy Nhai, giáo hữu của cha gom góp tiền đến gặp sư Tình xin chuộc, nhưng nhà sư chê ít và giữ cha tại nhà riêng mười ngày. Thấy thế, giáo hữu lên tỉnh trình quan và hứa sẽ hậu tạ nếu vị linh mục được giải thoát. Quan Trấn thủ Sơn Nam liền phái lính về Thủy Nhai bắt cả sư Tình lẫn cha Tế. Vị sư này nhanh chân chạy thoát, lên tận kinh đô tố cáo với vua rằng: Quan Trấn thủ đã ăn hối lộ, và làng Lục Thủy chứa chấp Tây dương đạo trưởng. Khi hay tin, quan trấn biết không thể thả cha Tế được nữa, nên đành cho áp giải cha về Thăng Long. Dọc đường cha lên cơn sốt rét trần trọng, nhưng khi tới nơi, cha vẫn phải mang gông và bị tống giam vào ngục.
Năm Tù Đầu Tiên và Bản Án
Sau khi khỏi bệnh, cha Phanxicô Tế được đưa ra tòa hai ngày liền. Các quan đối xử tử tế với cha, nhưng dân chúng có người la ó, buông những lời khiếm nhã, có kẻ lấy que bẻ vụn, làm những hình thánh giá ném vào người cha. Cha bình tĩnh nhặt lên hôn kính và cất thánh giá vào túi. Trong ngục, cha được linh mục giả làm thầy lang vào thăm bệnh, giải tội và trao Mình Thánh Chúa. Suốt một năm, cha Nghi cùng cháu của bà Kính vẫn ra vào thăm và tiếp tế. Qua những chứng nhân này, mọi người biết cha Tế luôn kiên nhẫn, bình tĩnh, không trách cứ than vãn, và nhiều lần còn tỏ ý muốn được tử đạo nữa.
Ngày 10.7.1738, cha Tế bị đưa ra tòa cùng với nhà sư Tình. Quan trấn Sỏn Nam Hạ khi áp giải cha về kinh đô, đã tố các nhà sư chứa chấp cha mười ngày trong nhà. Để chạy tội, vị sư này xin đạp lên thánh giá, minh chứng mình không ủng hộ đạo Công giáo. Về phần cha Tế, khi các quan bắt cha bước qua Thánh giá, cha trả lời: “Tôi không thể phạm tội nặng ấy được”. Các quan hỏi về ý nghĩa ảnh tượng Thánh giá. Cha đáp: “ảnh này tượng trưng cuộc tử nạn của Con Thiên Chúa giáng sinh cứu chuộc nhân loại”. Các quan nói tiếp: “Nhưng luật triều đình cấm giảng đạo này”. Cha trả lời: “Chẳng ai có quyền cấm giảng đạo Thiên Chúa đã truyền loan báo cho mọi dân mọi nước. Ai cấm, tức là cướp quyền của Thiên Chúa”.
Các quan nghị án một lát, rồi tuyên án trảm quyết đạo trưởng Federich Tế, kết án sư Tình và con trai phải phát lưu chăn voi. Ngày 12.9 bản án được Chúa Trịnh Giang phê chuẩn, nhưng vì nhà sư chạy chọt chống án ở nhiều nơi, nên bản án chưa được thi hành.
Lời Chúa Không Thể Bị Trói Buộc
Thời gian sau đó, vì tình hình chính trị bất ổn, bản án của cha Tế bị lãng quên: Trịnh Doanh đảo chánh lật đổ anh, chiếm phủ chúa, và tự phong là Minh Đô Vương (1740-1767); rồi Lê Hiến Tông lên ngôi lấy hiệu là Cảnh Hưng (1740-1786): giặc Lê Duy Mật nổi lên ở Thanh Hóa; dư đảng của nhà Mạc cũng nổi loạn ở Thượng Du... Những biến cố dồn dập đó làm vua quan bận rộn đến nỗi quên mất “tử tội” của mình.
Lợi dụng hoàn cảnh đó, cha Tế khéo léo xin phép, có khi mất tiền, để được đi lại trong thành Thăng Long thăm các tín hữu, trao ban bí tích và giảng đạo cho lương dân. Có gia đình hai chị em bà Gạo là ngọai giáo, đã vào xin quan cho cha Tế đến tá túc tại nhà mình. Chị bà Gạo mắc bệnh nan y, không thuốc nào chữa nổi, sau nhờ lời cầu nguyện của cha Tế được khỏi bệnh, nên xin rửa tội ngay. Còn bà Gạo, một thời gian sau mới xin tòng giáo, lấy tên thánh là Rôsa. Hai chị em sống đạo rất gương mẫu.
Thấy cha Tế dễ dàng ra vào ngục như thế, Đức Giám mục Longer Gia ngỏ ý muốn đặt cha làm chính xứ Kẻ Chợ (Thăng Long), nhưng cha từ chối, vì thấy rằng không chắc được dễ dàng mãi. Cha nói: “Một tù nhân không thể coi sóc ai được”.
Từ ngày 30.5.1744, cha Tế có thêm một cộng sự viên rất đắc lực nữa, đó là linh mục Matthêô Alonso Liciniana Đậu cũng dòng Đaminh, bị bắt cách đó sáu tháng, được áp giải về Thăng Long và cùng bị giam một nơi. Niềm vui mừng xúc động dạt dào tả sao cho hết. Hai nhà thuyết giáo thăm hỏi, an ủi, khích lệ và bàn bạc với nhau, biến Thăng Long thành môi trường truyền giáo, hợp tác với nhau làm mục vụ tông đồ.
Giờ Phút Vinh Quang
Sau hơn bảy năm tù và bảy tháng được sống chung với người bạn đồng chí hướng, ngày 22.1.1745, cha Tế bị đem đi xử. Cha tỏ vẻ hân hoan, cảm ơn và giã biệt chị em bà Gạo, tạm biệt cha Liciniana Đậu và một số ân nhân, rồi thanh thản tiến ra pháp trường. Riêng cha Đậu chỉ bị án chung thân, xin phép quan đi theo đưa tiển. Thế nhưng khi đi ngang hoàng cung, cha Đậu được tin mình cũng bị xữ trảm với linh mục bạn.
Hai vị chứng nhân nhìn nhau vui sướng. Cả hai cùng tạ ơn Chúa, vì từ đây không bao giờ phải xa lìa nhau nữa. Tại pháp trường, giáo hữu cũng như lương dân có mặt rất đông đều tỏ lòng thương tiếc, cảm thông. Lý hình vừa chém rơi đầu hai vị, nhiều người òa lên khóc và ùa vào thấm máu, hoặc lấy vật gì làm thánh tích.
Theo ý Đức cha Hilario Hy, thi hài hai cha được đưa về an táng tại nhà chung Lục Thủy. Vài ngày sau, Đức cha tổ chức thánh lễ tạ ơn long trọng, có đông đảo các cha dòng đến dự. Ngay khi đó mọi người đều tin tưởng hai đấng đã được lãnh triều thiên tử đạo, và bắt đầu chuẩn bị lập hồ sơ xin phong thánh.
Ngày 20.5.1906 các ngài được Đức Giáo Hoàng Piô X suy tôn lên bậc Chân Phước.
Ngày 22 Tháng 1
Thánh Matthêô ALONSO LICINIANA ĐẬU
Linh mục dòng Đaminh
(1702 - 1745)
Đồng Tử Đạo Tiên Khởi của Đất Việt
Ngày 22.1.1745, trên đường ra pháp trường ở ngoại ô Thăng Long, hai vị linh mục đồng hành: Cha Phanxicô Tế và cha Matthêô Đậu. Số phận hai nhà thuyết giáo này cho đến nay vẫn gắn liền với nhau. Hai người bạn thân với biết bao điểm tương đồng: từ đồng hương là Tây Ban Nha đến đồng dòng tu thánh Đaminh, tỉnh hạt Đức Mẹ Mân Côi. Rồi cả hai đã cùng đến giảng đạo tại địa phận Đông Đàng Ngoài, cùng bị bắt ở Lục Thủy, đồng lao cộng khổ với nhau ở trong tù. Thế mà trên đường ra pháp trường, một vị tươi cười, cha Phanxicô Tế, vì sắp được tử đạo, một vị vẻ mặt rầu rĩ, cha Matthêô Đậu, chỉ bị án chung thân và đi tiễn chân bạn mình. Vậy là giờ đây sắp phải chia tay nhau mãi mãi!
Khi đoàn hành hình đi ngang hoàng cung thì dừng lại. Một viên quan đại diện nhà vua đến loan tin: “Đạo trưởng Đậu cũng phải chịu án chém đầu”. Niềm mong ước của cha Đậu được toại nguyện, và nhờ bản án đó, hai cuộc đời của hai chứng nhân đức tin đã nối chặt không bao giờ tách rời được nữa: đồng sinh đồng tử và cuối cùng đồng phúc vinh quang giữa hàng ngũ các thánh tử đạo anh hùng. Và đặc biệt, nhờ bản án đó, cha Matthêô Đậu được thành vị thánh đồng tử đạo tiên khởi trên đất nước Việt Nam.
Viễn Đông Vẫy Gọi
Matthêô Alonso Liciniana Đậu sinh ngày 26.10.1702 (trước Thánh Phanxicô Tế bảy tuần) tại Nava del Rey, Tây Ban Nha. Đáp lại tiếng Chúa kêu mời, cậu Alonso đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức Kitô trong tu viện Santa Cruz do chính Thánh Đaminh lập ở Ségovia (năm 1218), thành phố còn lưu dấu nhiều di tích của Thánh Tổ phụ. Tại đây Alonso đã tuyên khấn, học thần học và thụ phong linh mục.
Thời gian này, Tỉnh hạt Đaminh Đức Mẹ Mân Côi phái người đến các tu viện cổ động và tìm người truyền giáo ở Viễn Đông. Tình hình vùng truyền giáo quá thiếu người. Thí dụ tại Bắc Việt, không kể Đức cha Sextri Tri, dòng chỉ còn bốn vị. Năm 1728, ba linh mục gởi đến đây đã bị đắm tàu chết hết (1). Cha Alonso và 23 tu sĩ Tây Ban Nha đã đáp lời mời đi tàu đến Manila vào tháng 11.1730. Tháng hai năm sau, cha cùng với hai linh mục Phêrô Ponsgrau Băng và Micae Pajares đi Macao để đến Việt Nam. Cuộc hành trình sóng gió hiểm trở kéo dài mười một tháng, cha Pajares lâm bệnh phải trở về. Hai vị còn lại đến Trung Linh ngày 18.1.1732 trong niềm vui lớn của địa phận Đông Đàng Ngoài.
Trên một địa phận rộng lớn với số nhân sự quá ít oi, cha Matthêô Đậu phải di chuyển và phục vụ nhiều nơi. Sau thời gian học tiếng ở Trung Linh, cha truyền giáo ở Sơn Nam Thượng, hoạt động trong các huyện Kim Động, Tiên Lữ, Thần Khê (Hưng Yên), rồi các huyện Thanh Quan, Vũ Tiên (Thái Bình), và sang cả Nam Châu, Giao Thủy, Xuân Trường (Nam Định). Các giáo xứ lớn đã được cha coi sóc là Trung Lao, Tiên Chu, Kẻ Hệ và Lai Ổn. Sức khỏe của cha không được tốt lắm, dáng người mảnh khảnh, ốm yếu, nhưng cha đã vượt qua mọi gian khó và luôn kiên trì hoạt động không ngơi nghỉ.
Cuộc Thử Thách
Tháng 11.1743 đang ở Lai Ổn, thấy tình hình không mấy bình an, cha liền di chuyển qua Lục Thủy Hạ, trú trong nhà ông trùm Độ. Chẳng may trong làng có một tín hữu đã bỏ đạo tên Đạt biết được và đi tố cáo với quan. Sáng 29 tháng 11 quân lính đến vây làng Lục Thủy, ập vô nhà đang lúc cha cử hành thánh lễ. Các giáo hữu sợ hãi chạy tán loạn. Cha Đậu vì bất ngờ cũng hoảng hốt bỏ chạy, tay ôm bình Thánh và rước hết Bánh Thánh. Nhưng không kịp nữa rồi, quân lính đuổi theo bắt cha lại, và đánh đập cách tàn nhẫn. Họ xúm vào vật cha xuống đất, kẻ bứt tóc xé áo, người nhổ râu xỉ vả chế diễu. Một người lính cầm giáo đâm sượt ngang hông, máu chảy loang đỏ trên bộ áo dòng trắng, khiến cha tưởng giờ chết sắp đến, miệng thầm kêu tên cực trọng Giêsu Maria. Cùng bị bắt với cha có ba thầy giảng Đaminh Sĩ, Đaminh Đậu, Ignatio Qúy và hai giáo hữu trong xứ. Tất cả được giải lên quan trấn thủ Sơn Nam bấy giờ là Lê Văn Phượng. Quan chỉ giữ lại cha Đậu và Thầy Quý, còn tất cả được trả về tự do.
Sau ba lần ra tòa, với nhiều cách thức nạt nộ, đe dọa, dụ dỗ hoặc tra tấn, quan trấn thủ không thể làm cha Đậu và thầy Quý chối bỏ đức tin. Ngày 21.12 quan hỏi cha có biết lệnh vua cấm giảng đạo không, cha đáp: “Chính vì cấm tôi mới phải ẩn trốn chứ”. Quan liền thảo bản án trảm quyết cha Đậu, còn thầy Quý bị phát lưu thảo tượng (chăn voi) suốt đời.
Nhưng sau đó, nhờ sự can thiệp của một viên quan thiện cảm với đạo, án của cha được đổi thành chung thân, còn thầy Quý được tha bổng sau khi mộp cho quan một món tiền. Ngày 30.5.1744, quân lính áp giải cha về Thăng Long và giam chung với linh mục Phanxicô Tế đã bị bắt từ năm 1737, đã có án trảm quyết, nhưng vì tình hình chính trị nên chưa bị đem đi xử.
Cùng Sống, Cùng Chết, Cùng Phúc Vinh
Thật tả sao cho xiết niềm vui thiêng liêng được gặp lại nhau của hai anh em cùng dòng, lại cùng tuổi trong cảnh tù tội này. Từ nay các vị không còn đơn độc nữa. Hai anh em hân hoan chia sẻ cho nhau những tâm tư thao thức, ôn lại những kyœ niệm, trao đổi bàn bạc việc tông đồ và cùng nhau cầu nguyện. Chỉ sau vài ngày với một ít tiền bạc, cha Đậu cũng được tự do đi thăm và giúp đỡ các tín hữu trong vùng. Vào lễ Chúa Ba Ngôi năm 1744, cha Tế dâng lễ, cha Đậu giúp lễ. Nhưng một khung cảnh đẹp đáng ghi nhớ hơn, và có lẽ là trường hợp duy nhất trong hạnh các thánh tử đạo, đó là ngày 4 tháng 6 năm ấy, lễ Mình Thánh Chúa, sau sáu tháng tù không có cơ hội nay cha Đậu được dâng một thánh lễ âm thầm nhưng ấm cúng trong tù với sự tham dự của 130 giáo hữu Thăng Long. Bảy tháng tù ở kinh đô đã trôi qua thật êm ả, hai vị linh mục vẫn tiếp tục loan báo Tin mừng, giải tội, rửa tội, xức dầu và an ủi khích lệ các tín hữu. Riêng cha Đậu trong bảy tháng đã rửa tội 55 người, trong đó có 22 người lớn và giải tội cho 620 hối nhân.
Ngày 22.1.1745, có lệnh đưa cha Tế đi xử trảm. Án của cha Đậu vẫn như cũ là án chung thân. Cha buồn rầu hết sức, và năn nỉ xin phép quan cho đi tiễn chân bạn đến pháp trường. Khi đi ngang hoàng cung, đoàn người dừng lại, một viên quan khi đọc bản án của cha Tế và đọc tiếp: “Matthêô cũng là đạo trưởng Hoa Lang đã bị án chung thân, nay bị kết án xử trảm”.
Thế là cuối cùng cha Đậu được toại nguyện. Tại pháp trường, quân lính chặt tháo xiềng xích ở chân tay hai cha, vô tình làm chảy máu khá nhiều. Các tín hữu đến tận nơi hôn xiềng xích và xin các cha cây Thánh giá ở tay làm kyœ vật. Sau khi bị trói vào cọc, hai linh mục bị chém cùng một lúc trong sự thương cảm của những người đến dự, dù giáo hay lương. Có sử liệu ghi nhận: một cụ bà Phật tử ở đó lâm râm cầu trời khấn Phật cho hai cha thoát chết. Khi đầu hai vị tử đạo rơi xuống đất, nhiều người khóc nức nở, và xông vào thấm máu hoặc tìm vật kyœ niệm.
Cha Bề trên dòng, Phêrô Ponsgrau Băng, người đã đến Việt Nam cùng ngày với cha Đậu, cử hai thầy giảng Điều và Luận, cùng ít giáo hữu tìm cách rước thi hài các tôi trung đức tin về nhà tràng Lục Thủy. Giáo hữu ba xứ Bùi Chu, Trung Linh, Trung Lễ gặp nhau và tranh quyền an táng các ngài ở nhà thờ mình. Cha chính phải can thiệp để họ vui lòng nhường cho nhà chung. Mấy ngày sau, Đức cha Hilario Hy dâng lễ tạ ơn, có các cha dòng và rất đông đảo giáo dân tham dự.
Đức Thánh Cha Piô X suy tôn hai cha Phanxicô Federich và Matthêô Liciniana Đậu lên bậc Chân Phước ngày 20.5.1906.
(1): Các cha Sebastiano Bartera, Gioan Travaria, Lui Aguado. Xc Bùi Đức Sinh, Dòng Đaminh Trên Đất Việt. q. I, tr.68. |
|