|
2. "Hiệp Thông” (Communio)
Ngày nay, từ ngữ thứ hai trong chủ đề, tức Hiệp Thông, đã trở thành thời thượng. Thực thế, nó là một trong các từ ngữ sâu sắc nhất và có đặc điểm hơn hết trong truyền thống Kitô giáo. Chính vì lý do này, điều rất quan trọng là phải hiểu nó cách rộng dài hết sức. Ở đây, Đức Hồng Y kể lại một kinh nghiệm bản thân. Hồi cùng một số bạn hữu, nhất là Henri de Lubac, Hans Urs von Balthasar, Louis Bouyer, Jorge Medina, có ý định ra một tạp chí để đào sâu và khai triển gia tài Công Đồng để lại, các ngài loay hoay đi tìm tên thích hợp để đặt cho tờ tạp chí, mà phải là một chữ đơn mà thôi nhưng có thể chuyên chở được mục đích của tờ báo. Năm 1965, năm cuối cùng của Công Đồng, đã có một tập san dùng làm tiếng nói thường trực cho Công Đồng và tinh thần của nó rồi, đó là tập san Concilium. Hans Kung nghĩ: ông đã khám phá ra sự đồng nghĩa giữa hai hạn từ ekklesia (Giáo Hội) và concilium (công đồng). Vì gốc Hy Lạp của hai từ ngữ này đều là kalein (triệu tập). Từ ngữ đầu, tức ekklesia, có nghĩa là triệu tập, mà từ ngữ thứ hai, tức concilium, cũng có nghĩa là cùng triệu tập. Cho nên, xét trong yếu tính, hai từ ngữ ấy chỉ về cùng một sự vật. Căn cứ vào mối liên hệ nguyên ngữ này, ta có thể nói hai hạn từ Giáo Hội và Công Đồng đồng nghĩa với nhau và trong bản chất của mình, Giáo Hội được coi như một Công Đồng liên tục của Thiên Chúa trong trần gian. Cho nên, phải quan niệm Giáo Hội theo nghĩa “công đồng” này và được “thực tại hóa” dưới hình thức một Công Đồng; và ngược lại, Công Đồng cũng phải được quan niệm như một thể hiện sâu sắc nhất của “Giáo Hội”, nghĩa là Giáo Hội trong hình thức cao cả nhất của mình.
Đức Hồng Y cho hay trong những năm tiếp sau Công Đồng, Ngài cũng suy nghĩ theo quan điểm ấy trong một thời gian, nghĩa là coi Giáo Hội như một công đồng thường trực của Thiên Chúa trong trần gian, một quan điểm thoạt mới nhìn hết sức thông sáng. Ngài cho rằng không nên bỏ qua các hậu quả thực tiễn của lối quan niệm này và tính lôi cuốn khá tức khắc của nó. Tuy thế, dù Ngài cho cái nhìn của Hans Kung chắc chắn có đúng và nghiêm chỉnh, nhưng đồng thời Ngài cũng thấy cần phải chỉnh đốn quan điểm ấy một cách đáng kể. Và Ngài trình bầy vắn tắt một số điểm Ngài đã nghiên cứu thấy vào dịp đó. Các tìm tòi triết học và thần học của Ngài về ý nghĩa của hai hạn từ “giáo hội” và “công đồng” thời xưa cho Ngài thấy: công đồng chắc chắn là một thể hiện quan trọng và sinh tử của Giáo Hội, nhưng trên thực tế, Giáo Hội là một cái gì khác, yếu tính Giáo Hội sâu sắc hơn thế nhiều.
“Hiệp Thông” (Koinonia) sống Lời sự sống
Công đồng là điều Giáo Hội chủ trương, nhưng Giáo Hội không phải là một công đồng. Giáo Hội không hiện hữu chủ yếu để mà bàn luận, nhưng để sống Lời từng được ban cho ta. Nên Ngài nghĩ hạn từ diễn tả được quan niệm căn bản ấy, một quan niệm chuyên chở được yếu tính của chính Giáo Hội, chính là koinonia - hiệp thông. Cho nên, không nên miêu tả cơ cấu của Giáo Hội bằng hạn từ “công đồng” mà đúng hơn phải bằng hạn từ “hiệp thông”. Khi Ngài công khai đề nghị các ý niệm ấy trong tác phẩm xuất bản năm 1969, tựa là The New People of God (Dân Mới Của Chúa), thì ý niệm hiệp thông chưa được phổ biến lắm trong các cuộc thảo luận công công về thần học và giáo hội học. Thành thử, các ý niệm của Ngài về chủ đề ấy chỉ được ít người xem sét. Tuy nhiên, đó là những ý niệm quyết định hướng dẫn Ngài trong việc tìm cho ra cái tên thích hợp cho tờ tạp chí mới, và quả chúng đã dẫn Ngài tới việc đặt tên cho tờ tạp chí ấy là Tập San Communio (Hiệp Thông).
Chính ý niệm này thì mãi tới năm 1985 mới được nhìn nhận rộng rãi tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới. Cho tới lúc đó, thuật ngữ “Dân Chúa” thịnh hành hơn trong tư cách là quan niệm mới chính yếu dùng để mô tả Giáo Hội, và được mọi người tin là có năng lực tổng hợp được các ý định của chính Công Đồng Vatican II. Niềm tin này có thể đúng nếu thuật ngữ này được sử dụng theo nghĩa Thánh Kinh đầy đủ nhất của nó và theo bối cảnh rộng lớn và chính xác trong đó Công Đồng đã dùng nó. Tuy nhiên, khi một từ ngữ chính đã trở thành một khẩu hiệu (slogan), ý nghĩa của nó chắc chắn sẽ giảm đi; và quả thực, nó đã bị tầm phào hóa (trivialized). |
|