|
Sự kết hợp xã hội có tính phổ quát
Cho nên, nền linh đạo thực sự về hiệp thông, nhìn trong chiều sâu Kitô học của nó, nhất thiết phải có đặc tính xã hội, như Henri de Lubac đã mô tả một cách tuyệt diệu hơn nửa thế kỷ trước đây, trong tác phẩm Catholicism (Đạo Công Giáo) của mình.
Vì lý do này, khi tôi đọc kinh hiệp lễ, tôi phải hoàn toàn hướng về Chúa Kitô, để tôi được Người biến cải, được ngọn lửa ‘hỏa hào’ của Người thiêu đốt tôi. Nhưng cũng chính vì lý do này, tôi phải luôn luôn ý thức rõ ràng rằng qua cách đó, Người kết hợp tôi cách hữu cơ với mọi người khác cũng đang tiếp nhận Người, với người qùy cạnh tôi đây, người mà tôi có thể chắng thích chút nào; mà còn cả với những người ở tận cuối chân trời, mãi tận Á Châu, Phi Châu, Mỹ Châu hay ở chốn xa xăm nào khác.
Trở nên một với họ, tôi phải học để biết cách mở rộng con người mình hướng về họ và để mình tham dự vào các hoàn cảnh của chính họ. Đó là bằng chứng chứng minh tính chân thực của tình yêu tôi dành cho Chúa Kitô. Nếu tôi kết hợp nên một với Chúa Kitô, tôi cũng nên một với người lân cận của tôi, và sự nên một này không chỉ giới hạn vào thời điểm hiệp lễ mà thôi, mà chỉ là bắt đầu ở đấy. Nó trở thành sự sống, trở thành thịt và máu, trong mọi kinh nghiệm hàng ngày của chia sẻ cuộc đời với người lân cận của tôi. Như thế, các thực tại cá biệt trong sự hiệp thông và trong tư cách là thành phần trong đời sống Giáo Hội của tôi đã được liên kết với nhau một cách không thể nào tháo gỡ ra được nữa.
Giáo Hội không được hạ sinh từ việc liên hiệp các cộng đồng. Việc hạ sinh ra Giáo Hội khởi đầu từ một tấm bánh, với một Đức Chúa và từ Người, từ khởi thủy và khắp mọi nơi, một thân xác đã được dẫn khởi từ một tấm bánh. Giáo Hội trở nên một không nhờ một việc cai trị tập quyền mà nhờ một tâm điểm chung mở toang cho mọi người, vì tâm điểm ấy không ngừng rút tỉa nguồn gốc từ một Đức Chúa duy nhất, Đấng nhờ một tấm bánh, đã tượng hình Giáo Hội thành một cơ thể duy nhất. Chính nhờ vậy, sự hợp nhất của Giáo Hội có một chiều sâu lớn lao hơn bất cứ sự hợp nhất nào của con người mọi thời. Chính khi hiểu nó như tình thân mật kết hợp mỗi người với Chúa, mà Phép Thánh Thể cũng trở thành một bí tích có tính xã hội rất cao độ.
Thánh Martin de Porres, á thánh Têrêxa thành Calcutta
Các vị thánh xã hội vĩ đại, trên thực tế, vẫn luôn là những vị thánh vĩ đại của Phép Thánh Thể. Đức Hồng Y Ratzinger muốn nhắc tới hai điển hình được chọn một cách tình cờ.
Trước nhất là Thánh Martin de Porres, sinh tại Lima, Peru, năm 1569, con trai một người mẹ Phi Mỹ (Afro-American) và một nhà qúy tộc Tây Ban Nha. Thánh Martin sống nhờ việc thờ lạy Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể, sống trọn nhiều đêm cầu nguyện trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh trong Nhà Tạm, trong khi cả ngày chăm sóc không biết mệt mỏi các người bệnh và trợ giúp những người bị xã hội ruồng bỏ, khinh ghét, những người được Ngài tự đồng hóa với do chính gốc gác thấp hèn của mình. Cuộc gặp gỡ Chúa Kitô, Đấng hiến mình cho ta trên thánh giá, làm chúng ta trở thành chi thể của cùng một thân thể nhờ cùng một tấm bánh, một biến đổi mà nếu biết đáp ứng đầy đủ, sẽ thúc đẩy ta đến chỗ phục vụ người đau khổ, chăm sóc người yếu ớt và bị lãng quên. Thời ta, có á thánh Têrêxa thành Calcutta. Bất cứ nơi đâu Ngài muốn mở nhà để các nữ tu của mình chăm sóc người sắp chết và người bị bỏ rơi, điều đầu tiên Ngài đòi phải có là chỗ đặt Nhà Tạm, vì Ngài biết rõ chỉ bắt đầu từ đó, ta mới có sức mạnh để phục vụ mà thôi.
Bất cứ ai nhận ra Chúa trong Nhà tạm, đều nhận ra Người trong người đau khổ và thiếu thốn; họ ở trong số những người mà quan tòa trần gian sẽ phán: “Ta đói, các con cho Ta ăn; Ta khát, các con cho Ta uống; Ta trần truồng, các con cho Ta mặc, Ta bệnh, các con đến thăm Ta, Ta ngồi tù, các con đến với Ta” (Mt 25:35).
Đoạn Tân Ước quan trọng thứ hai liên quan tới hạn từ “hiệp thông” là trích từ đầu Thư thứ nhất của Thánh Gioan (1:3-7). Trong đoạn này, Thánh Gioan nói đến cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời Nhập Thể, cuộc gặp gỡ mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài. Ngài nói rằng Ngài thông truyền điều chính mắt Ngài đã được chứng kiến và chính tay Ngài đã được đụng tới. Cuộc gặp gỡ ấy ban cho Ngài ơn koinonia (hiệp thông) với Chúa Cha và Con của Người là Chúa Giêsu Kitô. Ơn hiệp thông ấy đã trở thành ơn hiệp thông thực sự với Thiên Chúa hằng sống. Theo Thánh GIoan, ơn hiệp thông này đã mở mắt cho Ngài và nhờ thế, Ngài được sống trong ánh sáng, nghĩa là, trong chân lý của Thiên Chúa, một chân lý được phát biểu qua giới răn độc đáo và mới mẻ, một giới răn vượt trên mọi giới răn khác, đó là giới răn yêu thương. Cho nên, hiệp thông với “Lời sự sống” là trở thành sự sống công chính, là trở thành tình yêu. Nhờ thế, nó cũng trở thành hiệp thông qua lại: “Nếu ta đi trong ánh sáng… ta cũng sẽ hiệp thông với nhau” (1Ga 1:7).
Đoạn văn trên cũng cho thấy cùng một luận lý về hiệp thông mà ta đã thấy nơi Thánh Phaolô: hiệp thông với Chúa Giêsu trở thành hiệp thông với chính Thiên Chúa, hiệp thông với ánh sáng và với tình yêu; nhờ cách đó, nó cũng trở thành sự sống công chính, và những điều ấy kết hợp ta với nhau trong chân lý. Chỉ khi nào chịu nhìn hiệp thông dưới khía cạnh sâu rộng này, ta mới nói truyện được với thế gian. |
|