|
3. Liên đới
Hạn từ thứ ba là “liên đới”. Trong khi hai hạn từ trên do Thánh Kinh và Thánh Truyền mà có, thì hạn từ thứ ba này do bên ngoài mà có. Như đức Tổng Giám Mục Paul Cordes từng phát biểu, quan niệm “liên đới” khởi đầu được những nhà xã hội chủ nghĩa đầu tiên như P. Lerou (chết năm 1871) khai triển như một giải đáp mới, hữu lý và hữu hiệu đối với các vấn đề xã hội, ngược lại ý niệm yêu thương của Kitô giáo.
Không có Chúa Kitô, sẽ không có giải pháp nào cả
Karl Marx chủ trương rằng Kitô giáo có đến một thiên niên kỷ rưỡi để chứng tỏ khả năng giải quyết các vấn đề nghèo đói, bất bình đẳng và bất công của mình, nhưng chỉ thành công trong việc chứng tỏ mình không có khả năng làm việc đó.
Bởi thế, Marx cho rằng cần phải dùng các đường lối mới. Trong nhiều thập niên qua, nhiều người vẫn xác tín rằng hệ thống xã hội chủ nghĩa Mácxít, dựa trên ý niệm “liên đới”, phải là con đường cuối cùng để thực hiện bình đẳng nhân bản, loại trừ nghèo đói và đem hòa bình lại cho thế giới. Ngày nay, ta thấy rõ cái lý thuyết và chính sách xã hội bất cần tới Thiên Chúa ấy đã để lại sau lưng biết bao khủng khiếp và tàn sát.
Không ai chối cãi rằng mô thức tự do của nền kinh tế thị trường, nhất là nền kinh tế thị trường được các ý niệm xã hội của Kitô Giáo điều hoà và chỉnh đốn, đã có những thành công lớn lao tại một số miền trên thế giới. Nhưng điều buồn là người ta cũng thấy các hiệu quả tai hại của nó, nhất là ở những miền như Phi Châu, nơi có đang có sự tranh chấp giữa các thế lực và quyền lợi kinh tế. Đàng sau những mô thức phát triển mà bề ngoài có vẻ mang lại lợi ích ấy, người ta thấy đôi khi chỉ là những tham vọng dấu mặt nhằm khuếch trương các quyền lực hay ý thức hệ đặc thù hòng thống trị thị trường. Trong hoàn cảnh ấy, các cơ cấu xã hội cũng như các lực lượng tâm linh và luân lý xưa đã và đang bị hủy hoại nặng nề, đem lại không biết bao nhiêu các hậu quả đang vang vọng bên tai ta như những tiếng kêu thống khổ.
Thực ra, không có Thiên Chúa, không có sự việc nào tiến triển được. Và vì Thiên Chúa chỉ mạc khải khuôn mặt cũng như Danh Thánh của Người cho ta và bước vào hiệp thông với ta, trong một mình Chúa Kitô mà thôi, nên nếu không có Chúa Kitô, sẽ không bao giờ có niềm hy vọng tối hậu.
Kitô hữu nêu gương giải pháp, bất chấp các thất bại khủng khiếp
Rõ ràng là trong các thế kỷ qua, người Kitô hữu mắc nhiều tội lỗi nghiêm trọng. Nạn nô lệ và buôn bán nô lệ vẫn còn là một chương đen tối chứng tỏ người Kitô hữu ít là Kitô hữu thực sự xiết bao và nhiều Kitô hữu đã xa rời đức tin và sứ điệp Phúc Âm, xa rời sự hiệp thông chân thực với Chúa Giêsu Kitô biết chừng nào.
Tuy thế, nhìn từ góc độ khác, ta lại thấy thật nhiều gương sáng đầy đức tin và yêu thương, nơi nhiều linh mục và nữ tu, tận tụy sống hy sinh và khiêm nhường. Những cuộc đời ấy đã mang lại những cán cân quân bằng tích cực và để lại một gia sản yêu thương. Gia sản ấy nếu không loại bỏ được cảnh bóc lột khủng khiếp, thì ít nhất cũng đã làm nó giảm bớt khá nhiều. Ta có thể tiếp tục xây dựng trên các chứng tá ấy; ta có thể tiến xa hơn trên nẻo đường của họ.
Trong mấy thập niên qua, nhờ các gương sáng ấy, và nhất là nhờ các nghiên cứu đạo đức học của Đức Gioan Phaolô II, cái hiểu về liên đới dần dần đã được biến đổi và được Kitô hóa, đến độ ngày nay ta có quyền đặt nó cạnh hai hạn từ chủ yếu của Kitô giáo tức hạn từ Thánh Thể và Hiệp Thông. Liên đới, trong bối cảnh mới này, có nghĩa là cảm thấy có trách nhiệm đối với nhau, người khỏe mạnh có trách nhiệm với người đau yếu, người giầu có trách nhiệm với người nghèo, các nước Bắc Bán Cầu có trách nhiệm với các nước Nam Bán Cầu. Liên đới là ý thức cá nhân về trách nhiệm hỗ tương; nó có ý nhắc nhở ta nên ý thức rằng lúc cho đi chính là lúc nhận lãnh. Liên đới có nghĩa: ta chỉ cho đi điều mình đã nhận lãnh và điều cho đi không bao giờ là của riêng một mình mình. |
|