|
LINH MỤC, CHÚA KI-TÔ THỨ HAI
KHI CỬ HÀNH THÁNH LỄ VÀ CÁC BÍ TÍCH
Trong hiến chế tín lý về Giáo Hội “Ánh sáng muôn dân”, thánh công đồng Va-ti-can II dạy rằng: “Chức linh mục thừa tác không những có chức năng đại diện cho Chúa Ki-tô –Đầu của Giáo Hội- đối diện với cộng đoàn tín hữu, nhưng còn có nhiệm vụ hành động nhân danh toàn thể Giáo Hội khi dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của Giáo Hội, và nhất là khi dâng Thánh Lễ”25. Mà quả thật là như vậy, ở đâu có linh mục thì ở đó quy tụ được thành phần những kẻ tin vào Chúa Giê-su, và khi linh mục cử hành thánh lễ thì chính ngài là một Chúa Ki-tô thứ hai đang dang tay trên thánh giá, không phải để diễn kịch, nhưng là để hiến tế, ban ơn, tha tội và quy tụ con cái Chúa đang tản mát khắp nơi26 về một mối.
Các linh mục khi ý thức được chức thánh mà mình đã lãnh nhận, không phải chỉ nhất thời theo nhu cầu của hoàn cảnh, nhưng là vĩnh viễn, thì các ngài cũng ý thức rằng, bổn phận và trách nhiệm của mình không phải chỉ một thời hạn ngắn, nhưng là liên tục không ngừng cho tới khi Chúa Giê-su lại đến, dù cho khi không thi hành phận vụ cử hành các bí tích. Bởi vì, ơn thánh bởi bí tích Truyền Chức Thánh không ngừng tuôn đổ xuống trong tâm hồn nhiệt thành của các ngài, và Thánh Thần vẫn không ngừng hoạt động nơi các ngài, để các ngài –bất kì lúc nào- cũng luôn đáp ứng nhu cầu thiêng liêng của đoàn Dân Chúa đã trao phó cho mình cai quản, thánh hóa và giáo huấn. Do đó, nét nổi bật nhất mà người tín hữu nhìn thấy Chúa Ki-tô nơi các ngài, là lúc các ngài cử hành các Bí Tích và Thánh Lễ, vì chính khi cử hành các Bí Tích và Thánh Lễ, thì dù cho vị linh mục đó là ai, là già hay trẻ, là mới chịu chức hay chịu chức đã lâu, thì các ngài vẫn là vị tư tế của Tân Ước, là chủ tế của cuộc hiến tế không đổ máu trên bàn thờ, là Đầu của một cộng đoàn đang hiện diện, và là một Chúa Ki-tô thứ hai đang cử hành các mầu nhiệm thánh.
A. CỬ HÀNH THÁNH LỄ
Bữa tiệc nào cũng có hai phần: giới thiệu, trò chuyện thân tình và ăn uống, và một vị chủ tiệc.
Hi tế nào cũng có hai giai đoạn: chúc tụng, tạ ơn, cầu xin và hiến dâng lễ vật, và một vị chủ tế.
Thánh Lễ nào cũng có hai phần: phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, và một vị tư tế.
Thánh Lễ chính là bữa tiệc Nước Trời, là hi tế của Chúa Giê-su hiến dâng lên Chúa Cha, cho nên phụng vụ tự nó là một việc thánh thiêng mà con người –qua Giáo Hội- cử hành cách công khai để tôn vinh Thiên Chúa, và cảm tạ tình yêu thương của Ngài dành cho nhân loại, cho nên, thánh công đồng Va-ti-can II dạy rằng: “Phụng Vụ đáng được xem là việc thực thi chức tư tế của Chúa Giê-su Ki-tô, trong đó công cuộc thánh hóa con người được biểu tượng nhờ những dấu chỉ khả giác và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu chỉ..... Do đó, vì là công việc của Chúa Ki-tô tư tế và Thân Thể của Người là Giáo Hội, nên mọi việc cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh...”27. Là vị tư tế được chọn giữa con người để thay mặt Chúa Ki-tô, chủ tế những buổi hội họp phụng tự của Dân Chúa, người linh mục phải luôn luôn xét thấy mình bất xứng với chức vụ thánh, mà Chúa Ki-tô đã ủy thác để tiếp nối sứ mạng của Ngài tại trần gian. Các linh mục phải luôn làm cho tư tưởng và hành vi của mình tỏa nét sáng ngời của Chúa Ki-tô khi cử hành Phụng Vụ Thánh, mà cụ thể là việc cử hành Thánh Lễ và các Bí Tích.
Có nhiều giáo dân đến nhà thờ để tham dự các nghi thức Phụng Vụ hoặc Thánh Lễ, với ý thức và lòng cảm tạ sâu xa đối với tình thương hải hà của Thiên Chúa, nhưng đôi lúc chính họ cảm thấy thất vọng, và như bị xúc phạm đến tận sâu xa trong đức tin của mình, khi họ thấy linh mục chủ tế không chuẩn bị cho việc cử hành thánh lễ, họ thấy ngài dâng thánh lễ theo thói quen lập đi lập lại cách máy móc không có tâm tình cử hành phụng vụ thánh, tùy tiện phát ngôn trong thánh lễ không theo quy định của Giáo Hội về lễ nghi, và tệ hại hơn nữa là chính việc cử hành Phụng Vụ Thánh cách vô hồn ấy của một số linh mục, làm cho giáo dân giảm thiểu lòng yêu mến việc thờ phượng Thiên Chúa, mà khi lòng mến đã giảm bớt thì đức tin cũng từ từ tắt ngúm nơi họ luôn.
Giáo dân khi tham dự thánh lễ thì chỉ biết linh mục là vị đại diện của Chúa Ki-tô để dâng thánh lễ tạ ơn mà thôi, như thế cũng đủ lắm rồi, nhưng chính linh mục phải làm cho họ biết rõ ràng hơn không phải ngài chỉ là đại diện Chúa Giê-su mà thôi, nhưng còn là một Chúa Ki-tô thứ hai đang cử hành hiến tế tạ ơn, tiếp tục hy lễ Thập Giá ngày xưa trên núi Sọ. Trong đôi bàn tay của linh mục, cũng một tấm bánh ấy, cũng một chén rượu nho ấy, cũng một lời nói ấy mà tất cả đã trở nên Mình và Máu Thánh của Chúa Giê-su –vị đại tư tế muôn đời- làm lễ vật cao quý dâng lên Chúa Cha để cứu chuộc và tha tội cho nhân loại. Không còn hình ảnh nào thánh thiêng cho bằng, không có giây phút nào trang nghiêm cho bằng khi linh mục hai tay nâng Mình Máu Chúa Giê-su lên cao, để tất cả mọi loài trên trời dưới đất chiêm ngắm và thờ lạy.
Vì sự cao cả ấy của thiên chức linh mục, mà tất cả những ai được gọi phục vụ bàn tiệc của Chúa, phải nêu gương sáng ngời trong cách ăn nết ở của mình, để Chúa Ki-tô “yên lòng” ở trong đôi bàn tay của linh mục, và để các Ki-tô hữu càng thấy rõ sự cao cả của mầu nhiệm hy tế hơn, bởi đó mà thánh Gioan Ca-pét-ra-nô linh mục nói rằng: “Đúng là thiên hạ sẽ chà đạp giáo sĩ nào hoen ố và nhớp nhơ, chìm ngập trong vũng bùn thói hư tật xấu, bị xích xiềng tội ác trói buộc, và nên như phân dơ hôi hám khiến bị coi là chẳng còn ích lợi chi cho mình hay cho người khác nữa. Thánh Ghê-gô-ri-ô nói: “Sống mà đáng khinh thì dĩ nhiên giảng cũng đáng chê”28, người ta có lý do của họ khi phê phán linh mục cử hành Thánh Lễ không trang nghiêm không sốt sắng, bởi vì họ đã nhận ra sự cao quý của Thánh Lễ, còn linh mục tại sao không nhận ra điều ấy khi cử hành Thánh Lễ ?
1. Bài giảng
Bài giảng là một phần quan trọng của thánh lễ, nó không thể tách rời khỏi thánh lễ để tự do cho người này kẻ nọ lên chia sẻ hay giảng thay cho linh mục, nhưng phải là những người đã được nhận lãnh chức linh mục (hoặc ít nữa là các thầy Phó Tế được phép của linh mục giảng trong thánh lễ do ngài chủ tế), vì chính các ngài đã nhận quyền thánh hóa, cai quản và giảng dạy từ nơi Giáo Hội, qua việc xức dầu hiến thánh của giám mục của mình.
Khi giảng dạy là linh mục giảng lời của Chúa Giê-su, vì ngài chính là vị tư tế của Tân Ước, là người được chọn giữa loài người để rao giảng ơn cứu độ cho mọi người. Do đó khi giảng dạy thì linh mục đừng bao giờ quên rằng, mình là một Chúa Ki-tô thứ hai đang ngồi giữa đám đông dân chúng mà giảng cho họ biết về Nước Trời, là chia sẻ cho họ về những gì mà mình cảm nghiệm về Lời Chúa mà mình đã biết và sống như mình đã cảm nghiệm, bởi vì không ai cho cái mà mình không có, nhưng cho cái mà mình đang có và có cách phong phú chính là Lời Chúa mà mình suy tư hằng ngày, như Chúa Giê-su đã có lần nói với các môn đệ: “Ai tự mình giảng dạy thì tìm vinh quang cho chính mình”29, mà linh mục thì không tự mình giảng dạy, nghĩa là ngài không giảng dạy theo kiểu của con người hay làm là tâng bốc người này, đá đảo người nọ, không đặt gánh nặng trên vai người này, không hô hào ủng hộ người nọ, nhưng là giảng dạy theo ý muốn của Thiên Chúa, tức là là tìm vinh quang cho Đấng đã sai mình.
Bài giảng trong Thánh Lễ rất quan trọng, giờ đây không còn là con người của linh mục giảng nữa, mà là Chúa Giê-su đang giảng cho dân chúng, bài giảng đầu tiên và là mẫu mực cho các bài giảng khác của các linh mục sau này, chính là “bài giảng Phúc cho”30 trên núi của Chúa Giê-su, Ngài không thịnh nộ khi giảng cho dân chúng, Ngài cũng không lý luận thần học cao siêu cho dân chúng nghe, nhưng Ngài giảng bình dị thực tế với hoàn cảnh của dân chúng, lời của Ngài tuy đơn sơ nhưng có uy quyền, và Ngài đến đâu cũng có đám đông người tuôn đến để nghe Ngài giảng, sức thu hút mãnh liệt đó chính là Chúa Giê-su đã giảng những gì mình đã sống và thực hành những gì mình đã cảm nghiệm.
Người ta dễ dàng nhận ra một bài giảng có chiều sâu nội tâm, khiến cho họ cảm nhận sâu sắc Lời Chúa và dễ thực hành trong cuộc sống của họ, vì bài giảng ấy đã được chính người giảng –linh mục- đã cảm nghiệm và đã sống. Cũng qua bài giảng mà người giáo dân có thể “thấy” được đời sống bên trong cũng như bên ngoài của linh mục, vì ngài sống sao giảng vậy: đơn sơ, chân thành, hừng hực lửa yêu mến phát xuất tự trong tâm của ngài, hoặc là, to tiếng nạt nộ những giáo dân trễ nãi việc nhà xứ, phê bình chỉ trích những giáo dân lâu nay không đến nhà thờ...
Linh mục, Chúa Ki-tô thứ hai đang hiện diện giữa cộng đoàn khi cử hành Thánh Lễ, dù cho hôm đó ngài giảng không thu hút giới trẻ, nhưng ngài vẫn là linh mục của Chúa Ki-tô; dù cho ngài không có tài lợi khẩu, nhưng ngài vẫn là người phát ngôn chính thức Lời Chúa, vì ngài đã được chọn và được xức dầu thánh hiến, để trở nên một Chúa Ki-tô thứ hai giữa loài người.
Giáo dân vẫn còn buồn và âm thầm chịu đựng, khi thấy một vài linh mục biến tòa giảng thành nơi phát biểu thành tích ông này bà nọ đóng góp cho nhà thờ, và quảng cáo không công cho tổ chức này đoàn thể nọ; họ vẫn còn mang một tâm trạng không mấy phấn khởi, khi thấy một vài linh mục dùng Lời Chúa để biện minh cho hành động thiếu đức bác ái hoặc bàu chữa cho sự nóng nảy của mình. Cho nên, thật đáng phấn khởi và vui mừng khi linh mục chủ tế đã chuẩn bị sẵn sàng để cử hành Thánh Lễ, ngài sẽ là trung tâm chú mục của những giáo dân hiện diện, và lòng sốt mến tham dự thánh lễ nơi họ càng tăng lên gấp bội khi linh mục trang nghiêm, sốt sắng, đem Lời Chúa hôm nay đã đánh động tâm hồn mình như thế nào thì chia sẻ cho những người tham dự biết, để họ cũng được học hỏi cách sống Lời Chúa của ngài, chính những lúc như thế, ngài –linh mục- thật sự là một Chúa Ki-tô thứ hai đang rao giảng Tin Mừng Nước Trời cách thân thương giữa đoàn chiên của mình.
2. Thánh Thể
Có một số giáo dân không muốn đi tham dự thánh lễ ngày chủ nhật, là vì họ cảm thấy rằng, mình đi lễ mà không rước Mình Thánh Chúa thì vô ích quá, bởi vì họ cảm nhận được sâu sắc thánh lễ chính là bữa tiệc Nước Trời, nếu đi dự tiệc mà không ăn uống gì cả, thì thật là...vô duyên, thế là họ không đi tham dự thánh lễ. Cách suy nghĩ như trên của một số giáo dân chắc chắn là không đúng tí nào cả, nhưng ít nữa cho chúng ta biết rằng: Thánh Thể chính là của ăn của uống nuôi sống linh hồn chúng ta, là sự hiệp nhất của mọi Ki-tô hữu, và linh mục chính là một Chúa Ki-tô thứ hai đang là dấu chỉ hữu hình hiệp nhất của cộng đoàn Dân Chúa.
Đọc trên bài viết nọ, có linh mục nói như thế này: “Chịu chức được 5 năm thì linh mục run rẩy trong tay Chúa Giê-su, sau 5 năm thì Chúa Giê-su run rẩy trong tay linh mục”, câu nói nghe ý nhị mà chua chát thấm tận tâm hồn, lột tả được tâm trạng của những người sau nhiều năm tháng làm linh mục.
Thánh lễ tạ ơn đầu tay nào của linh mục cũng trang nghiêm cảm động, làm cho các tín hữu tham dự như thấy được Chúa Giê-su đang cử hành thánh lễ, từng cử chỉ, từng lời nói của tân linh mục khoan thai, khiêm tốn, thánh thiện, cẩn trọng, sốt sắng làm cho bầu khí vốn trang nghiêm càng trang nghiêm thêm, vốn sốt mến càng sốt mến hơn, bởi vì tân linh mục luôn ý thức và hiểu rõ công việc mình đang làm là của Chúa Giê-su đã làm ngày xưa trong bữa tiệc ly với các môn đệ, và hiến tế mình đang cử hành đây chính là hiến tế trên Thập Giá của Chúa Giê-su, và đây là hi tế đầu tiên mà mình cử hành với tư cách là tư tế của Tân Ước, và là một Chúa Ki-tô thứ hai đang cử hành phụng vụ thánh.
Nhưng một hoặc hai năm sau thì tâm tình thánh thiện ấy dần dần biến mất nơi một vài tư tế của Tân Ước, có một vài linh mục cử hành thánh lễ theo một thói quen nhất định, có khi làm cho xong bổn phận, nên từng cử chỉ và lời nói của ngài gây sốc cho giáo dân tham dự thánh lễ, và làm cho Chúa Giê-su run rẩy trong tay của ngài, vì đời sống nội tâm của ngài chứa đầy những tư tưởng của thế gian, vì cuộc sống của ngài chưa lột tả được đời sống của một Chúa Ki-tô thứ hai, nên việc cử hành thánh lễ của ngài như là một diễn viên diễn xuất không đạt chất lượng.
Những người tham dự thánh lễ do cha thánh Pi-ô cử hành đều nói: “Thấy nét mặt và cử chỉ của ngài, chúng tôi như thể trông thấy Chúa Ki-tô đang phải thương khó trên bàn thờ thực sự. Đức tin của chúng tôi nhờ thế càng thêm vững vàng, lòng ăn năn sám hối càng thêm quyết chí, lòng mến Chúa ngày càng gia tăng. Đi dự lễ của ngài mấy lần cũng không chán”31.
Giây phút linh thiêng và trang trọng nhất của thánh lễ là lúc truyền phép của linh mục, chính lúc này đây, khi cầm bánh thánh trên tay, linh mục chủ tế phải run rẩy sợ hãi vì mình đang làm một việc mà ngay cả các thiên thần cũng không được phép làm, đó là làm cho tấm bánh và rượu nho trở thành Mình và Máu Thánh của Chúa Giê-su. Cả thiên đàng đang ở đây, đang run rẩy quỳ gối sấp mình thờ lạy Thánh Thể sau lời đọc truyền phép của linh mục, ai mà không run sợ trước mầu nhiệm hết sức cao cả vượt qua tất cả mọi trí khôn của loài người, và ai có thể làm được điều mà linh mục đang làm ? Không ai được phép làm cả, chỉ có linh mục mà thôi, bởi vì linh mục được chọn để trở nên một Chúa Ki-tô thứ hai, tiếp tục công việc cứu độ của Chúa Giê-su ở trần gian này.
Thánh Thể là nguồn ân sủng dồi dào của các linh mục, cho nên không thể tách Thánh Thể ra khỏi đời sống của các ngài, lại càng không thể để cho Chúa Giê-su run rẩy trong đôi tay của mình khi cử hành Thánh Lễ, nhưng hãy làm cho Chúa Giê-su vui mừng trong tay của mình bằng cách đắm mình sâu trong mầu nhiệm tình yêu mà mình sắp cử hành, bằng cách luôn ý thức vai trò mà mình đang đảm nhiệm: vai trò của Chúa Giê-su tư tế, vai trò tư tế của Tân Ước và vai trò của vị chủ tế đang cử hành mầu nhiệm thánh.
Khi linh mục cử hành thánh lễ với đôi tay dang ra cầu nguyện, thì như một Môi-sen trong Cựu Ước đã dang hai tay ra cầu nguyện cho dân Ít-ra-en bất trung được chiến thắng người A-ma-lếch32, và như Chúa Giê-su bị đóng đinh dang tay trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi, hình ảnh cảm động này, làm cho chúng ta không thể không nhớ đến lời của Chúa Giê-su khi Ngài nói với ông Ni-cô-đê-mô: “Như ông Môi-sen đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”33.
|
|