|
Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ (tư tưởng Thánh Maximillian Kolbe)
Nhưng há “tượng thai” không phải là một luật trừ hay sao? Không; không bao giờ có luật trừ nào cả (13). Đứng trên quan điểm của trường phái Tôma, điều vị thánh người Ba Lan này viết trong trước tác sau cùng của ngài quả là sáng chói. Ngài biết rằng tại Lộ Đức, Đức Mẹ tự định nghĩa ngài là sự Tượng Thai Vô Nhiễm. Mặc dù không hoàn toàn thấu hiểu ý nghĩa thuật ngữ này khi áp dụng vào Đức Mẹ, nhưng ngài hiểu tạm đủ nó muốn nói Đức Mẹ chính là sự Tượng Thai Vô Nhiễm; ta cũng có thể nói: sự Tượng Thai Vô Nhiễm nằm ngay trong “chính bản tính của Đức Mẹ”. Trong các câu chữ sau cùng, sau khi viết rằng Chúa Cha sinh hạ (begets) từ thuở đời đời và Chúa Con được hạ sinh (begotten) từ thuở đời đời, Thánh Kolbe đã áp dụng ý niệm hay cái tên mà Đức Mẹ, trong tư cách thụ tạo, đã dùng để tự định nghĩa về mình, cho Thiên Chúa; nhất là cho Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là ai? Là sự đơm bông tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Nếu hoa trái của tình yêu thụ tạo là sự tượng thai thụ tạo, thì hoa trái của tình yêu Thiên Chúa, vố là nguyên mẫu của mọi tình yêu thụ tạo, nhất thiết phải là sự “tượng thai” Thiên Chúa. Bởi thế, Chúa Thánh Thần chính là “sự tượng thai không được dựng nên nhưng có tính đời đời”, là nguyên mẫu của mọi sự tượng thai vốn nhân thừa sự sống suốt tận cùng vũ trụ (14).
Thánh Kolbe nhận định rằng: về phương diện phát sinh của Thiên Chúa, tượng thai có thể có hai nghĩa. Thứ nhất, nó có nghĩa như một hành vi của tri thức qua đó người ta “tượng thai” một ý niệm nghĩa là một khái niệm (concept); và đó là cách Thánh Tôma dùng để mô tả việc Ngôi Lời đã phát sinh ra sao từ Chúa Cha (15). Thứ hai, nó có nghĩa như một hành vi của ý chí, mà Thánh Tôma vốn mô tả như một “thúc đẩy và chuyển dịch hướng về một đối tượng” (16). Thánh Tôma nói rằng “việc phát sinh ra ý chí (tức Tình Yêu trong Chúa Ba Ngôi) được thực hiện… bằng một thúc đẩy và chuyển dịch hướng về một đối tượng”. Như thế, ta có thể nói rằng tình yêu được “tượng thai” giữa hai chủ thể. Đó chính là cách Thánh Kolbe dùng hạn từ ấy để mô tả việc phát sinh ra Tình Yêu nơi Chúa Ba Ngôi. Ngài nói rằng ta có thể đặt tên riêng cho việc phát sinh ấy là sự (hay Đấng) Tượng Thai Vô Nhiễm Không Được Tạo Dựng Nhưng Có Tính Đời Đời”, một cái tên có thể mô tả được hành vi yêu thương (tức hành vi của ý chí) phát sinh từ thuở đời đời giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Hơn nữa, tận cùng hay cùng đích của hành vi yêu thương phát sinh từ thuở đời đời giữa Chúa Cha và Chúa Con kia, một tình yêu hoàn hảo vì có tính Thiên Chúa, có thể được ngôi vị hóa. Thánh Kolbe gọi Ngôi Vị ấy, một Ngôi Vị vốn là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa, bằng tên riêng là sự Tượng Thai Vô Nhiễm Không Được Dựng Nên Nhưng Có Tính Đời Đời.
Thánh Tôma vốn cho rằng: “Ta chỉ có thể đặt tên cho Thiên Chúa từ các thụ tạo. Vì nơi thụ tạo, việc hạ sinh là nguyên lý duy nhất của việc thông truyền bản tính, nên việc phát sinh nơi Thiên Chúa không có tên riêng hay tên đặc thù, ngoài chính việc hạ sinh. Bởi thế, việc phát sinh mà không phải là hạ sinh mãi mãi không có tên đặc thù” (17). Nhưng việc Tượng Thai Vô Nhiễm của Đức Mẹ nhận diện không những cách thức ngài được tượng thai (chỉ một hành động); tên ấy còn nhận diện chính con người của ngài nữa. Như Thánh Kolbe từng nói, sự Tượng Thai Vô Nhiễm “không phải là một cái gì tùy thể [accidental]; nó là một cái gì thuộc về chính bản tính của ngài. Vì ngài là chính sự Tượng Thai Vô Nhiễm bằng người”.
Thánh Kolbe chính xác muốn nói gì khi ngài viết rằng sự Tượng Thai Vô Nhiễm “thuộc về chính bản nhiên của ngài” tức Đức Mẹ? Chính thánh nhân, khi xem sét chủ đề này, cũng phải nhìn nhận rằng ta đang giáp mặt với một mầu nhiệm khôn tả. Ngay từ năm 1933, ngài từng viết rằng: “Đấng Vô Nhiễm là đấng nào và có nghĩa là gì? Ai có thể hiểu ngài một cách hoàn toàn được?... Mọi người chúng ta có thể hiểu “mẹ” có nghĩa gì; nhưng “Mẹ Thiên Chúa” thì là một điều gì đó mà lý trí của ta cũng như trí khôn hữu hạn của ta không thể nào thực sự nắm bắt được. Cũng thế, chỉ có Thiên Chúa mới thực sự hiểu được “vô nhiễm” nghĩa là gì mà thôi. Cùng lắm, ta chỉ có thể phỏng đoán là “được thụ thai mà không mang tội”; nhưng “Tuợng Thai Vô Nhiễm” là một biểu thức có rất nhiều trong các mầu nhiệm của Đạo (18). Và trong trước tác cuối cùng vào ngày 17 tháng Hai năm 1941, Thánh Kolbe một lần nữa đặt câu hỏi: “Ôi lạy Đấng Tượng Thai Vô Nhiễm, vậy Mẹ là ai?”.
Có lẽ trước hết, ta nên xem xét điều Thánh Kolbe không đề cập tới trong lời phát biểu của ngài rằng việc Tượng Thai Vô Nhiễm “thuộc về chính bản tính của Đức Mẹ”. Rõ ràng, ngài không nói: Đức Mẹ không có một bản tính nhân loại do việc hạ sinh nhân bản đem lại. Đức Mẹ hoàn toàn là nhân bản. Ngài tiếp nhận bản tính nhân loại của mình từ cha mẹ tự nhiên của ngài qua việc hạ sinh nhân bản. Thiển nghĩ, Thánh Kolbe cũng không có ý nói Đức Mẹ có một bản tính “siêu nhân” hay lúc ngài được Tượng Thai Vô Nhiễm, một sự gì đó đã “được thêm vào” cho bản tính nhân loại của ngài. Hiệu quả của việc thêm thắt này khiến ngài trở thành điều gì đó khác với hữu thể nhân bản. Không; trong yếu tính, Đức Mẹ là nhân bản trọn vẹn, giống như chúng ta vậy. Điểm dị biệt giữa Đức Mẹ và mọi thành viên khác trong gia đình nhân loại liên quan tới ơn thánh; nó nằm trong sự kiện này là ngay giây phút đầu tiên ngài được tạo dựng hay tượng thai, vì công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, ngài được ban một ơn thánh hay một đặc ân đặc biệt, ơn mà Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Piô IX, trong thông điệp dùng để định nghĩa Tượng Thai Vô Nhiễm, tức thông điệp Ineffabilis Deus (Thiên Chúa Khôn Tả), đã cho rằng luôn gìn giữ Đức Mẹ khỏi mọi vết nhơ của Nguyên Tội.
Vị thánh người Ba Lan này chắc chắn biết rõ: ơn thánh vốn xây trên bản nhiên. Nói rằng Tượng Thai Vô Nhiễm có ý nói tới điều gì đó có tính yếu tính nơi Đức Mẹ, như một phần trong chính bản tính nhân loại của ngài, hơn là một ơn thánh đặc thù nào đó, có thể đi ngược lại thông điệp của Đức Piô IX; vì nếu Đức Mẹ, trong chính bản tính, trong chính yếu tính, là sự Tượng Thai Vô Nhiễm, chả hóa ra ngài không cần đến bất cứ một ơn thánh đặc thù nào giúp ngài được như thế hay sao. Bởi thế, cần phải giải thích cặn kẽ các ngôn từ của Thánh Kolbe khi quả quyết rằng Tượng Thai Vô Nhiễm vốn thuộc về chính bản tính của Đức Mẹ; hẳn thánh nhân sử dụng kiểu nói ấy để chuyên chở ý nghĩa này: sự Tượng Thai Vô Nhiễm là một điều gì đó đã trở thành một phần của Đức Mẹ đến độ ngài có thể dùng nó để định nghĩa về chính mình.
Chính nhờ ơn thánh và đặc ân đặc thù đó, không ban cho bất cứ một hữu thể nhân bản nào khác ngoài Đức Mẹ, nên ngài mới nói được rằng “Ta là Đấng Tượng Thai Vô Nhiễm”. Ơn thánh đặc thù đó, một ơn thánh vốn kết hợp ngài một cách khôn tả với Chúa Thánh Thần và đã giúp ngài trở thành Mẹ Thiên Chúa, và là người hợp tác một cách tích cực và có ý thức vào mọi ơn thánh Chúa ban cho con người, đã được đồng hóa với chính con người Đức Mẹ một cách mật thiết đến độ ngài thật sự có thể đồng hóa ơn thánh đó với chính bản ngã, chính con người của mình.
Ở đây, có một loại suy có thể giúp ta hiểu điều trên. Chúa Giêsu Kitô có thể nói rất đúng rằng: “Ta là Linh Mục Đời Đời”. Người là Linh Mục Thượng Phẩm Đời Đời do sự kết hợp nhị tính (hypostatic union) qua đó Người, vốn là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, tự kết hợp với một bản tính nhân loại, và do sự kiện này là Người tự dâng mình vừa như Linh Mục vừa như Của Lễ Hy Sinh trên Thánh Giá ở Đồi Canvariô. Không ai khác có thể tự hào như thế được (dù những người được thụ phong vào chức linh mục thừa tác, được chia sẻ chức linh mục của Chúa Kitô, có thể nói rằng “Tôi là một linh mục”). Cũng giống như thế, Đức Mẹ có thể nói rất đúng rằng: “Ta là sự Tượng Thai Vô Nhiễm (được dựng nên)” vì ơn thánh và đặc ân đặc thù này đã không được ban cho bất cứ thụ nào khác ngoài ngài ra. Như thể ngài muốn nhắn với ta: “Ta, và chỉ một mình ta, được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ của tội lỗi ngay ở giây phút ta được tượng thai. Chỉ có ta được kết hợp nên một với Chúa Thánh Thần, một cách dấu ẩn và mầu nhiệm mà thôi. Chỉ một mình ta là Mẹ Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời trở thành Xác Thịt. Và chỉ một mình ta hợp tác với hết Trái Tim Vô Nhiễm của ta vào cái chết cứu chuộc của Con Trai ta, và nay đang hợp tác với Chúa Thánh Thần trong việc phân phát mọi ơn thánh do Chúa Giêsu tạo lập được nhờ công nghiệp của Người”.
Một cách khác để xem xét ơn thánh đặc thù đã ban cho Đức Mẹ là so sánh nó với ơn thánh bí tích vốn tạo nên dấu ấn không thể tẩy xóa trong linh hồn ta, và do đó tác động tới các sức mạnh của linh hồn ta. Phép Rửa làm chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và giúp ta gia nhập Nước của Người; Phép Truyền Chức làm các ứng viên chia sẻ chức linh mục đời đời của Chúa Kitô, đồng hình đồng dạng các ngài với Chúa Kitô và cho phép các ngài thừa hành ba chức năng tư tế là giảng dạy, thánh hóa và cai quản. Cũng trong cách đó, ơn đặc thù ban cho Đức Mẹ vào lúc ngài được tượng thai làm ngài nên một và đồng hình đồng dạng một cách đặc biệt không sao diễn tả nổi với Chúa Thánh Thần, và ơn thánh đặc thù ấy lên sức mạnh cho ngài hay làm ngài có khả năng phản ảnh ngay trong linh hồn ngài chính thuộc tính có tính yếu tính nhất vốn gán cho Chúa Thánh Thần, đó là sức mạnh thần thánh của tình yêu mang nhiều hoa trái. Chúa Thánh Thần chính là Tình Yêu bằng Ngôi Vị; Tình Yêu vừa tiếp nhận vừa mang nhiều hoa trái. Chúa Thánh Thần hoàn toàn thu nhận tình yêu phát sinh từ thuở đời đời giữa Chúa Cha và Chúa Con, và Người làm cho tình yêu ấy sinh hoa trái bằng cách đổ tràn, đáp trả một cách vô cùng bội hậu tình yêu Người đã tiếp nhận. Sự tiếp nhận của Đức Mẹ được tỏ hiện sau này trong lời “Xin Vâng” đầy ý chí tự do, nhờ đó ngài đã mở trọn con người của ngài cho tình yêu sáng tạo của Chúa Thánh Thần và do đó đã mang lại hoa trái hết sức bội hậu: ngài được trở thành Mẹ Thiên Chúa làm người là Chúa Giêsu Kitô; và trong tư cách hiền thê của Chúa Thánh Thần, ngài dự phần vào việc phân phát mọi ơn thánh do Con của Ngài lập được nhờ công nghiệp của mình.
Một cách chủ yếu, Đức Piô IX đã dạy chân lý trên trong tông hiến Ineffabilis Deus khi ngài viết rằng Đức Mẹ “thánh thiện một cách đặc biệt và hết sức trong trắng trong linh hồn và thân xác… là người duy nhất đã trở nên nơi mọi ơn thánh của Chúa Thánh Thần chí thánh cư ngụ” (19). Còn Thánh Kolbe thì phát biểu chân lý cao cả ấy cách rõ ràng trong trước tác của mình như sau: Chúa Thánh Thần làm cho ngài mang nhiều hoa trái ngay từ giây phút hiện hữu đầu tiên trong đời, mọi giây phút ngài hiện hữu và mãi mãi đời đời. Đấng Tượng Thai Vô Nhiễm đời đời này (tức Chúa Thánh Thần) sản sinh ra (hay đúng hơn: tượng thai?) một cách hết sức vô nhiễm chính sự sống thần linh trong ‘dạ’ linh hồn Đức Mẹ, làm ngài trở thành Tượng Thai Vô Nhiễm, hay Tượng Thai Vô Nhiễm nhân bản. Và dạ đồng trinh của thân xác Đức Mẹ đã được giữ luôn thánh thiêng cho Người; chính ở đó, trong thời gian, Người đã tượng thai sự sống nhân bản của Thiên Chúa làm người (20).
Bây giờ ta có thể nắm vững cách rõ ràng hơn điều Thánh Kolbe muốn nói khi ngài gọi Chúa Thánh Thần là sự Tượng Thai Vô Nhiễm Không Phải Là Thụ Tạo, và gọi Đức Mẹ là sự Tượng Thai Vô Nhiễm Thụ Tạo. Chúa Thánh Thần đã sản sinh hay “tượng thai” cách vô nhiễm trong linh hồn Đức Mẹ, lúc ngài được tượng thai, ơn thánh đặc thù vốn gìn giữ ngài khỏi mọi tì vết của Nguyên Tội; và hơn nữa, qua ơn thánh đặc thù này, Người kết hợp Đức Mẹ với Người một cách khôn tả và thông truyền cho ngài, một thụ tạo, khả năng trở thành “nơi cư ngụ của mọi ơn thánh [của Người]”, như lời Đức Piô từng nói. Ơn thánh đặc thù vốn kết hợp Đức Mẹ một cách mật thiết với Chúa Thánh Thần này giúp ngài có thể phản ảnh ngay trong linh hồn ngài (qua sự hợp tác đầy ý chí tự do của ngài) chính thuộc tính có tính yếu tính nhất của Chúa Thánh Thần, đó là tình yêu mang hoa trái một cách hết sức bội hậu. Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, ơn thánh đặc thù của tình yêu thần thánh này mang hoa trái lại cho Đức Mẹ, trong lòng dạ ngài, là việc Nhập Thể; và trong việc ngài hợp tác với Chúa Thánh Thần để phân phát mọi ơn thánh do Chúa Kitô tạo lập được nhờ công nghiệp của Người. Như chính Thánh Kolbe từng nói: “Người làm cho Đức Mẹ mang hoa trái, ngay từ giây phút đầu tiên ngài hiện hữu, trong cuộc đời ngài và muôn đời muôn kiếp, thiên thu vạn đại”
Việc Tượng Thai Vô Nhiễm sự sống thần linh và tình yêu mang hoa trái này trong linh hồn Đức Mẹ được thực hiện nhờ hành động yêu thương, một hành động thuộc ý chí mà Thánh Tôma vốn mô tả như một “thúc đẩy và chuyển dịch hướng về một đối tượng”. Như thế, vị thánh người Ba Lan này có khả năng đi từ một tạo vật là Đức Mẹ tới Thiên Chúa Thánh Thần, và gọi cả hai vị là “Tượng Thai Vô Nhiễm”: Hành vi của ý chí hay tình yêu thần linh nơi Chúa Thánh Thần vốn sản sinh hay “tượng thai” ơn thánh đặc thù trong Đức Mẹ nhờ đó Đức Mẹ được tượng thai (sinh hạ) mà không vương Nguyên Tội và được biến thành hiền thê nhiều hoa trái của Người; và hành vi của ý chí hay tình yêu thần linh phát sinh từ thuở đời đời giữa Chúa Cha và Chúa Con vốn sản sinh hay “tượng thai” sự phát sinh ra Tình Yêu nơi Thiên Chúa Ba Ngôi (mà Thánh Tôma gọi là sự phà hơi tích cực).
Theo Dwight P. Campbell, 1993 Catholic Polls, Inc.
Vũ Văn An - VietCatholic News (20 May 2009 09:11)
(còn tiếp)
|
|