Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ
(tư tưởng Thánh Maximillian Kolbe)


Ở đây, Thánh Kolbe cho ta một thông tuệ sâu sắc về việc tại sao Thiên Chúa lại truyền lệnh để Chúa Thánh Thần chỉ hành động qua Rất Thánh Nữ Trinh mà thôi, bằng cách sử dụng loại suy của Nhập Thể trong công trình cứu chuộc. Thiên Chúa rất có thể truyền lệnh để việc cứu chuộc kia xẩy ra mà không cần tới việc Con Một của Người phải nhập thể và chết trên Thánh Giá. Nhưng bởi vì mọi nhận thức của ta đều từ giác quan mà có, nên Thiên Chúa có thể mạc khải tốt hơn cho ta Ngôi Thứ Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa và tình yêu nhân hậu của Người đối với ta qua việc Nhập Thể, qua sự kiện “Ngôi Lời trở nên xác thịt và ở giữa chúng ta” (Ga 1:14). Cùng một cách loại suy như thế, Thiên Chúa có thể mạc khải cách tốt hơn cho ta Ngôi Thứ Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa, tức Thiên Chúa Tình Yêu, và mạc khải cho ta thấy Ngôi này phân phát ra sao các ơn thánh do công nghiệp Chúa Kitô tạo lập được, bằng một dấu chỉ cụ thể, khả giác, tức một hữu thể nhân bản; và hữu thể nhân bản đó chính là Rất Thánh Nữ Trinh Maria.

Dù rất thận trọng khi nhấn mạnh rằng sự kết hợp giữa Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ “không cùng một bình diện như sự kết hợp nhị tính [hypostatic union] từng liên kết hai bản tính nhân loại và thần linh nơi Chúa Kitô”, Thánh Kolbe vẫn đã viết, dưới hình thức công thức, bằng tiếng Latinh như sau: "Filius incarnatus est: Jesus Christus. Spiritus Sanctus quasi incarnatus est: Immaculata. "(Chúa Con nhập thể: [chính là] Chúa Giêsu Kitô. Chúa Thánh Thần gần như nhập thể: [chính là] Đấng Vô Nhiễm) (27). Trong cuốn Immaculate Conception and the Holy Spirit (Tượng Thai Vô Nhiễm và Chúa Thánh Thần), Cha H. M. Manteau-Bonamy, O.P., đã đưa ra lời bình luận nhiều ý tưởng sau đây về lối dùng thuật ngữ “gần như nhập thể” (quasi incarnatus) của Thánh Kolbe: Những ngôn từ quả táo bạo! Nhưng trước câu Đức Mẹ phán tại Lộ Đức “Ta là sự Tượng Thai Vô Nhiễm”, thì thực ra chả còn gì khác để nói, ngoại trừ ta muốn giả thiết rằng Đức Mẹ chỉ muốn tự tặng cho mình một danh hiệu có tính tượng trưng. Hơn nữa, những ngôn từ táo bạo này vốn là các ngôn từ của một thần học gia lão luyện; ngài sử dụng câu giới hạn cần thiết, "quasi incarnatus", là câu buộc tâm trí tín hữu phải mở cửa đón nhận mầu nhiệm, dù không khuấy động niềm tin. Trước sau như một, ngài vẫn chủ trương rằng chỉ một mình Chúa Con là thực sự thành phàm nhân, chứ không phải Chúa Thánh Thần. Trách vụ của thần học gia không phải là chứng minh điều khôn tả (the ineffable), nhưng là cố gắng phát biểu điều khôn tả ấy ra, nếu có thể được, bằng những ngôn từ có khả năng thúc đẩy tâm hồn tín hữu đi quá điều trí khôn họ có thể hiểu. Chúa Thánh Thần “gần như nhập thể”, một cách đặc biệt nào đó, chứ không thực sự nhập thể theo nghĩa hẹp; vì Đức Mẹ, Đấng Vô Nhiễm, hiểu đúng nghĩa, đã được Chúa Thánh Thần tiếp nhận trọn cả hữu thể, trong tư cách một người đàn bà và một người mẹ (28).

Mặc dù câu Đức Mẹ phán với Thánh Nữ Bernadette ở Lộ Đức, vốn là một mạc khải tư, không có được sức mạnh thuyết phục đối với người không Công Giáo, nhưng các nhận định trên đây của Cha Manteau-Bonamy về ý nghĩa của thuật ngữ “gần như nhập thể” có thể giúp ta hiểu rõ hơn tại sao Thiên Chúa lại truyền lệnh để Chúa Thánh Thần chỉ hành động qua hiền thê của Người là Rất Thánh Nữ Trinh.

Ta còn có thể nói: chân lý sâu sắc này, tức chân lý cho rằng Đức Mẹ là “hình tượng nhân bản sống động” (hay nói theo Thánh Kolbe, là “gần như nhập thể) của Chúa Thánh Thần, đã được mạc khải trong Thánh Kinh, qua chính lời Đức Mẹ nói: “Linh hồn tôi tán dương Chúa” (Lc 1:46). Linh hồn Đức Mẹ khuếch đại hóa (magnificat) Thiên Chúa; nhất là Ngôi Ba Thiên Chúa, vì Đức Mẹ (nói theo Thánh Kolbe) là Tượng Thai Vô Nhiễm được dựng nên, được tạo hình nhờ quyền năng của Tượng Thai Vô Nhiễm Không Được Dựng Nên. Là một thụ tạo, nhờ Đấng Hóa Công, Đức Mẹ là biểu thức hoàn hảo nhất của tình yêu thụ tạo đầy hoa trái, được Người chỉ định phản ảnh hay họa ảnh lại Ngôi Vị Thiên Chúa vốn là Tình Yêu Không Được Dựng Nên, là Hoa Trái của tình yêu phát sinh từ thuở đời đời giữa Chúa Cha và Chúa Con.

Chú Thích

1. Đức GH Phoalô VI, Marialis Cultus (Tông Huấn về Thứ Bậc và Việc Phát Triển Đúng Lòng Tôn Sùng Rất Thánh Nữ Trinh Maria) (Tháng Hai, năm 1974) số 27.

2. Cha H. M. Manteau-Bonamy, O.P., Immaculate Conception and the Holy Spirit (Kenosha, Wisc.: Prow Books/Franciscan Marytown Press, 1977), 3-5, từ cuốn Final Sketch của Thánh Maximillian Kolbe, ngày 17 tháng Hai, năm 1941. Sách này đã được nhà Ignatius Press mới tái bản gần đây.

3. Sách đã dẫn., 52, từ Conference của Thánh Kolbe, 9 tháng Tư, 1938.

4. Trong Marialis Cultus, số 26, Đức Phaolô VI viết: “Các giáo phụ và văn sĩ của Giáo Hội… khi khảo sát sâu xa hơn mầu nhiệm Nhập Thể, đã thấy trong mối liên hệ đầy mầu nhiệm giữa Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ có một khía cạnh khiến người ta nhớ tới hôn nhân, được Prudentius thơ mộng mô tả như sau: ‘Trinh Nữ chưa kết hôn đã được Chúa Thánh Thần kết hôn”

5. Manteau-Bonamy, 57, trích từ Final Sketch của Thánh Kolbe.

6. Marialis Cultus, số. 25.

7. Manteau-Bonamy, 7, trích từ Letter by Kolbe from Nagasaki to the Youth of the Franciscan Order (Thư Cha Kolbe từ Nagasaki gửi Giới Trẻ Dòng Phanxicô), 28 tháng Hai, 1933.

8. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I, q. 13, a. 1

9. Sách đã dẫn, q. 27, a. 4, ad. 6.

10. Sách đã dẫn, q. 36, a. 1.

11. Sách đã dẫn, q. 37, a. 1.

12. Sách đã dẫn, q. 38, a. 2.

13. Manteau-Bonamy, 2-3, trích từ Final Sketch của Thánh Kolbe.

14. Sách đã dẫn, 3, trích từ Final Sketch của Thánh Kolbe.

15. Summa Theologiae, I, q. 27, a. 1 and a. 3.

16. Sách đã dẫn, q. 27, a. 4.

17. Đã dẫn

18. Manteau-Bonamy, 6, trích từ Letter to Fr. Anthony Vivoda (Thư gửi Cha Anthony Vivoda) của cha Kolbe, ngày 4 tháng Tư, 1933.

19. Đức Piô IX, Ineffabilis Deus (Tông hiến định nghĩa Tín Điều Vô Nhiễm Thai) (8 tháng Mười Hai, 1854) (Boston: Daughters of St. Paul), 17.

20. Manteau-Bonamy, 4, trích từ Final Sketch của Thánh Kolbe.

21. Sách đã dẫn, 90, trích từ Miles Immaculatae, I, của Thánh Kolbe, 1938.

22. de Montfort, True Devotion (Lòng Sùng Kính Chân Thật), số 21, 8.

23. Sách đã dẫn, số 25, 9.

24. Bonamy, 97, trích từ Sketch của Thánh Kolbe, 1940.

25. Sách đã dẫn, 91, trích từ Miles Immaculatae, I, của Thánh Kolbe, 1938.

26. Sách đã dẫn, 90-91.

27. Sách đã dẫn, 63, trích Thánh Kolbe.

28. Sách đã dẫn, 63-64.

Theo Dwight P. Campbell, 1993 Catholic Polls, Inc.

Vũ Văn An - VietCatholic News (20 May 2009 09:11)