THẦN HỌC VÀ THI CA (BTDL 2)

Thành thật mà nói đề tài được Ban Tổ chức đề nghị trình bày “THẦN HỌC VÀ THI CA” là quá bao quát, rất khó có thể gói gọn trong một khoảng thời gian quá ít ỏi là từ 30 cho đến 40 phút như thế nầy. Vì thế, tác giả xin mạo muội tự cho phép mình giới hạn đề tài trong vấn đề “Thử tìm hiểu nguyên nhân sự vắng bóng Thi ca trong đời sống và các phương tiện truyền thông ngày nay.”


Để tiếp cận vấn đề nầy, tôi sẽ thử, trước tiên, thông qua những quan hệ của con người ngày nay với thiên nhiên, với tha nhân, với bản thân mình và nhất là với Thiên Chúa và, sau đó, qua tình trạng lẫn lộn giữa ngôn ngữ thi ca và ngôn ngữ tín lý. Lý do là bởi vì, một đàng, Thần học (Theologia) vốn được định nghĩa như là những lời của con người nói “về” và nói “với’ Thiên Chúa trên cơ sở Lời của Thiên Chúa nói “về” và nói “với” con người và, bởi vì con người vốn là một tổng thể “Thiên-Địa-Nhân” (cosmothéandrique); và, đàng khác, bởi vì Thi ca cũng vốn được coi như “tiếng lòng” hay “tiếng đàn lòng” của con người ngỏ lời “về” và “với” con người, với bản thân mình, với thiên nhiên và với Thiên Chúa mà vốn vẫn đang “thì thầm” khôn nguôi bên trong và cả bên ngoài con người…



I- QUAN HỆ CỦA CON NGƯỜI NGÀY NAY VỚI THIÊN NHIÊN, VỚI THA NHÂN, VỚI CHÍNH MÌNH VÀ VỚI THIÊN CHÚA


Thật vậy, có lẽ một trong những nguyên nhân chính của sự vắng bóng thi ca trong đời sống và trong các phương tiện truyên thông (báo chí, truyền thanh, truyền hình, v.v…) chính là con người ngày càng xa cách thiên nhiên, xa cách con người, xa cách chính bản thân mình và xa cách chính Thiên Chúa (xem St các chương 1-3).


1 .Xa cách thiên nhiên


Các hiện tượng đô thị hóa, phá hoại thiên nhiên, v.v…, đã từng bước khiến cho con người xa cách với thiên nhiên. Tuy nhiên, từ đáy sâu của mỗi con người khát vọng sống hài hòa với thiên nhiên vẫn còn đó, vẫn âm ỷ không nguôi: điều nầy được thể hiện cách tiềm tàng nơi những thú chơi non bộ, cây cảnh, cá cảnh, thú cảnh… Con người là một tổng thể “Thiên-Địa-Nhân”, cho nên sự vắng bóng thiên nhiên hẳn cũng khiến thực tại đời sống con người phải nghèo nàn đi, thậm chí cả què quặt đi… Và, như vậy, tiếng nói của thi ca cũng khó mà cất lời. (Thí dụ : vầng trăng trên đất Mỹ).


2. Xa cách tha nhân

Có một nghịch lý đáng được quan tâm : con người ngày nay tuy đang sống trong một thế giới mà các phương tiện giao thông liên lạc tiện lợi và cực kỳ nhanh, nhưng vẫn không vì thế mà gần nhau hơn… Chính lối sống vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa vốn được đề cao đã khiến cho người ta nhìn nhau không còn như là những “mầu nhiệm” cần được trân trọng và kiếm tìm mà có vẻ như chỉ còn là những công cụ mà mình cần tranh thủ để mang lại lợi ích cho mình hay như đối thủ hoặc kẻ thù mà mình cần phải khử trừ tiêu diệt… Ngôn ngữ “về nhau” và “với nhau” của con người vì thế cũng mất đi luôn “tính thi ca” của nó… (Thí dụ : cách nam nữ yêu nhau ngày hôm nay; ngôn ngữ vợ chồng nói với nhau sau những tháng năm chung sống…).


3. Xa cách chính mình


Không chỉ xa cách nhau, con người ngày nay còn xa cách chính cả bản thân mình. Con người ngày nay không còn là chính mình mà thường bị “tha hóa”: sống như người khác sống, làm như người khác làm, nói như người khác nói, nghĩ như người khác nghĩ, yêu như người khác yêu, v.v… Trong những điều kiện vong thân như vậy, và nếu như Thi ca chính là “tiếng lòng mình”, thì làm thế nào tiếng nói của thi ca mới có thể lên tiếng? Khi chính mình không nghe được “tiếng lòng’ mình thì làm sao có thể nói lên được “về” và “với” tiếng lòng mình… Tiếng nói của Thi ca vì thế chắc hẳn sớm muộn cũng sẽ vỗ cánh bay đi… (Thí dụ: con người sợ hãi chính bản thân mình, trốn chạy chính bản thân mình…).


4. Xa cách Thiên Chúa


Khi con người không gặp gỡ được chính mình và tha nhân, con người cũng sẽ không thể nào gặp gỡ được chính Thiên Chúa, Cội Nguồn đích thực của Thi Ca. Cây có cội, nước có nguồn, con người vắng bóng Thiên Chúa cũng sẽ vắng bóng luôn Thi Ca đích thực, bởi vì Thiên Chúa chính là Tình Yêu (1 Ga 4, 16).


Việc nghiên cứu các Thánh vịnh, các tác phẩm Ngôn sứ, và đặc biệt sách Nhã ca trong Cựu Ước cho chúng ta cảm nghiệm được rằng không có mối quan hệ mật thiết với Thiên Chúa khó có thể có được một nền Thi ca Kitô giáo đích thực. Tuy nhiên, ở đây, cần phân biệt giữa ngôn ngữ thi ca và ngôn ngữ thần học…



II- NGÔN NGỮ THI CA VÀ NGÔN NGỮ THẦN HỌC


Nếu như trong cung cách bày tỏ tình cảm, mỗi nền văn hóa, mỗi dân tộc, thậm chí mỗi một người đều có những cung cách khác biệt nhau, với những kiểu cách khác biệt nhau, thì trong lãnh vực ngôn ngữ cũng vậy. Ngôn ngữ thần học tín lý phải ngắn gọn, rõ ràng, khúc chiết và để được hiểu bằng lý trí. Còn ngôn ngữ thi ca là ngôn ngữ của trực giác, được diễn tả qua những hình ảnh, biểu tượng so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, loại suy, v.v…, và để mà cảm nghiệm và trực giác chứ không để mà hiểu theo kiểu luận lý thông thường.


Trong Thi ca, vấn đề quan trọng là “cảm nghiệm với” chứ không phải chỉ là “biết hay hiểu về”… Đó chính là lý do tại sao phần lớn các Thánh Vịnh mà vốn là những bài thơ lại đồng thời cũng là những lời kinh. Quả thật, nếu người ta dùng ngôn ngữ thần học tín lý để “đọc” và “hiểu” các Thánh Vịnh, sách Diễm ca hay các sách Ngôn sứ của Cựu Ước, thì gần như cũng đồng nghĩa với việc người ta phải giết chết chúng… Giáo hội vẫn sử dụng để cầu nguyện cả những Thanh Vịnh mà nội dung và ngôn ngữ xét về mặt thần học tín lý không thể nào chấp nhận được (Thí dụ Tv 9, 6-7: “Người đã quát mắng dân ngoại đạo, diệt phường ác nhân, tên tuổi chúng, Người đã xóa đi đời đời kiếp kiếp. Địch thù đã tận tuyệt, cảnh thê lương muôn thưở, thành trì chúng, Người nhổ tận gốc, ký ức chúng đã tiêu ma”). Còn Sách Diễm ca chẳng hiểu sao chẳng có ai kết án là “hoa tình tục tỉu” với những câu như thế nầy mà trái lại còn được dùng cả trong Phụng vụ : “Chân em tuyệt đẹp trong những chiếc hài! Hỡi công nương! Đường cong cặp đùi những chiếc vòng, công trình do tay khéo léo. Rốn em tròn xoay như chung. Sao cho đừng thiếu rượu nồng! Bụng em, một đống miến mì, có huệ rào quanh. Đôi nhũ hoa như cặp nai tơ, con sinh đôi của linh dương mẹ. Cổ em như tháp ngà. Mắt em là những hồ nước Khesbôn, bên cổng Bat-Rabbim. Mũi em như tháp Liban, dõi về phía Đama, v.v…” (Dc 7, 2-6).


Điều đó có nghĩa gì nếu không phải Giáo hội đã không “hiểu” và “đọc” các Thánh vịnh và sách Diễm ca bằng ngôn ngữ thần học tín lý mà bằng ngôn ngữ thi ca, ngôn ngữ của lời kinh … Ở Viêt Nam một số bài thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử vốn được coi như là những vần thơ tôn giáo bất hủ nhưng nếu xét qua lăng kính ngôn ngữ thần học thì ngôn ngữ và biểu tượng được sử dụng trong những bài thơ nầy là “lai căng” (ảnh hưởng Phật giáo, Lão giáo…) và không thích hợp…


Như một kết thúc cho những chia sẻ ngắn gọn nầy, tôi cũng muốn chia sẻ với các bạn một câu hỏi mà bao nhiêu lần tôi đã tự đặt ra cho mình, đó là: Tại sao nền văn chương nghệ thuật “đời” ở Việt Nam phát triển như vũ bão trong những thế kỷ qua, còn trong Giáo hội Công giáo Việt Nam, khu vườn văn học nghệ thuật sao mà đìu hiu đến thế ! Liệu phải chăng, ở Việt Nam, người ta vẫn còn lẫn lộn giữa hai thứ ngôn ngữ thi ca và ngôn ngữ thần học và vì thế bao giờ thi ca cũng dễ dàng bị “phán xét” qua lăng kính thần học khiến thi ca và nghệ thuật khó có đủ dưỡng khí để mà tồn tại và phát triển ?

Chủng viện Thánh NICOLAS-Phan Thiết, ngày 17 tháng 01 năm 2008


Linh mục Phêrô NGUYỄN THIÊN CUNG

http://www.dunglac.org/index.php?m=h...detail&ia=3104