|
(tiếp theo và hết)
*** Kết luận ***
Để kết luận, chúng ta thử đưa ra một số những việc làm cụ thể để có thể đưa tinh thần đạo hiếu của Kitô giáo vào trong lòng dân tộc, và để cùng hòa nhập với các tôn giáo khác trong tinh thần đạo hiếu. 1. Thanh Minh và Vu Lan (10) là những lễ hội mang tính văn hóa dân tộc nhấn mạnh đến lòng thảo hiếu đối với cha mẹ hay tưởng nhớ đến những vị tổ tiên đã khuất bóng. Vì thế, tuy chúng ta đã có cả tháng 11 để kính nhớ và cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà tổ tiên đã khuất, nhưng chúng ta nên đồng hành cùng với dân tộc mình trong tinh thần đạo hiếu này bằng cách:
+ phát động nơi người Kitô hữu lòng hiếu thảo và sự tưởng nhớ cầu nguyện cho tổ tiên vào những lễ hội dân tộc ấy, và vào ngày cuối năm là dịp đa số người Việt tưởng nhớ đến cha mẹ còn sống và ông bà tổ tiên đã khuất bóng một cách đặc biệt.
+ có những nghi thức phụng vụ và á phụng vụ thích hợp song song với những nghi thức của Phật giáo và đạo thờ cúng Tổ Tiên vào những dịp lễ hội này (11).
2. Khuyến khích làm bàn thờ gia tiên trong gia đình. Đây là một cách làm cho người Kitô hữu gần gũi với đồng bào mình ở trong các tôn giáo. Vì trong các gia đình người Việt, thường có bàn thờ tổ tiên. Vả lại, qua dấu hiệu này, các tín hữu các tôn giáo khác cũng cảm thấy gần gũi với người Kitô hữu trong việc hiếu thảo này.
3. Tưởng nhớ đến công ơn tổ tiên của dân tộc Việt Nam cùng với các anh hùng dân tộc vào dịp giỗ tổ Hùng Vương ngày 10-3 âm lịch mỗi năm. Nếu mỗi gia đình đều có tổ tiên để kính nhớ, thì cả dân tộc cũng thế. Thiết tưởng chúng ta cũng nên tưởng nhớ và cầu nguyện cho tổ tiên dân tộc mình đặc biệt trong thánh lễ ngày giổ tổ. Chẳng lẽ chúng ta chỉ dành bổn phận cúng giỗ tổ tiên dân tộc cho những anh em tôn giáo khác làm, còn mình thì không sao?
4. Làm bàn thờ tổ tiên của dân tộc trong các nhà thờ. Nếu mỗi gia đình nên có một bàn thờ gia tiên, thì tại mỗi nhà thờ, nên có một bàn thờ kính nhớ tổ tiên của cả dân tộc ở một chỗ nào đó thuận tiện, thích hợp và danh dự, nhất là tại những nhà thờ lớn có tầm quan trọng quốc gia (12). Khuyến khích tinh thần thảo hiếu đối với tổ tiên cả nước là một cách gợi lên ý thức dân tộc, củng cố lòng yêu nước thương nòi, bày tỏ được lòng biết ơn đối với tiền nhân. Nếu chúng ta biết tôn kính những vị thánh ở tận đâu đâu, nhưng tổ tiên của dân tộc rất gần gũi với chúng ta mà chúng ta lại quên không nhớ đến, thì làm sao đồng bào của chúng ta cảm phục chúng ta được?
5. Lễ Vu Lan cũng là dịp các chủ chăn nhắc nhở giáo hữu về lòng biết ơn đối với những ân nhân của mình: ơn Thiên Chúa, ơn Giáo Hội, ơn tổ quốc, ơn xã hội, v.v… Đồng thời khuyến khích có những hành vi cụ thể biểu lộ lòng biết ơn ấy.
PHẦN ĐỌC THÊM
Nguồn gốc lịch sử của lễ hội Vu Lan
Vu Lan hay Vu Lan Bồn là phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana, dịch sang tiếng Hán Việt là Giải Đảo Huyền, nghĩa là cởi trói cho người bị treo ngược. Đảo Huyền là hình phạt đau khổ nhất cho loài ngạ quỉ (quỉ đói). Người bị treo ngược không hề được ăn uống nên bị đói khát giày vò suốt ngày rất đau khổ. Vì thế, Ullambana hay Giải Đảo Huyền có nghĩa cứu vớt những vong hồn đang phải chịu những hình phạt đau đớn vì nghiệp chướng do mình gây nên khi còn ở trần gian. Vì thế, lễ Vu Lan còn gọi là lễ Xá Tội Vong Nhân.
Tương truyền, lễ Vu Lan có nguồn gốc từ Đức Phật, khi Ngài chỉ cho đệ tử của Ngài là Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) cách cứu mẹ mình khỏi hình phạt của kiếp ngạ quỉ. Về sau, các Phật tử cũng áp dụng phương cách đó để cứu những vong hồn thân nhân của mình.
Kinh Vu Lan (Ullambanapatra-sutra) chép rằng:
Mục Kiền Liên, một trong những vị đại đệ tử của Phật, nổi tiếng nhất về lòng hiếu thảo và về thần thông, sau khi chứng quả La Hán, bèn nhớ đến công ơn cha mẹ và muốn báo đền. Nhờ có đạo nhãn, ông thấy mẹ mình đang bị đọa làm loài ngạ quỉ, thân thể ốm gầy, da bọc xương, bụng lớn đầu to, đói khát suốt năm không được ăn uống. Thương xót quá, ông bèn vận thần thông, bưng chén cơm đang ăn đến chỗ mẹ ở để dâng mẹ. Bà mẹ vì quá đói khát, nên khi được cơm, lòng tham nổi lên, sợ người cướp giật, lấy tay trái che giấu chén cơm, còn tay mặt bốc ăn. Bởi lòng tham độc ác trong tiền kiếp nổi bừng lên, nên vừa đưa cơm vào miệng, thì cơm hóa thành lửa, bà chẳng ăn được chút nào.
Mục Kiền Liên hết sức đau khổ, khóc lóc thảm thiết. Ông trở về bạch Phật, thuật lại câu chuyện và cầu Phật chỉ dạy phương pháp cứu độ thân mẫu. Phật dạy rằng:
«Này Mục Kiền Liên, mẹ của ông do lòng tham lam độc ác đã tạo ra tội lỗi nặng nề trong nhiều kiếp, nay sinh trong ác đạo làm loài ngạ quỉ, nên không thể một mình ông cứu độ được. Dẫu lòng hiếu thảo của ông vô cùng lớn lao cũng không sao chuyển được hoàn cảnh, chẳng khác gì chiếc thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy ông phải nhờ oai thần của chúng tăng trong mười phương, «thập phương chúng hội» đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ ông được giải thoát. Ta sẽ chỉ cho ông phương pháp cứu độ mẹ ông.
«Này Mục Kiền Liên, ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ (13) của chư tăng khắp nơi, sau ba tháng an cư kiết hạ (14),các chư tăng tiến bộ rất nhiều trên đường tu học. Nhân ngày ấy, ông hãy làm lễ Vu Lan Bồn để báo hiếu cho mẹ ông.
«Ông hãy sắm sửa đủ các món ăn chay, năm thứ trái cây, cùng hương dầu đèn nến, giường chõng chiếu chăn, mùng mền quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay … Tóm lại, là đủ bốn món cúng dường quí báu trên đời. Rồi ông phải thân hành đi rước các vị đại đức trong mười phương, hoặc những vị thiền định trong núi rừng chứng được bốn quả thánh, hoặc các vị bồ tát thị hiện làm thầy tỳ kheo … Ông phải thành tâm kính lễ trai tăng cúng dường và thỉnh cầu chư tăng chú nguyện (15) cho vong linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công đức chí thành chú nguyện, vong linh mẹ ông sẽ được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng trăm cân, nhưng có nhiều người khiêng thì dời đi đâu cũng được».
Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy làm lễ Vu Lan, sắm đủ các vật liệu, rước chư tăng đến cúng dường, nên vong mẫu của ông thoát khỏi kiếp ngạ quỷ sinh về cảnh giới lành. Sau đó, Mục Kiền Liên hỏi Phật xem những Phật tử khác muốn cứu độ cha mẹ mình có thể dùng phương pháp đó không. Phật trả lời:
«Quí lắm! này Mục Kiền Liên, đời sau, nếu có ai vì lòng hiếu thảo muốn đền đáp công ơn cha mẹ hiện tại hay quá khứ, thì cứ ngày rằm tháng bảy làm lễ Vu Lan này để cúng dường trai tăng. Nhờ công đức của chư tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tại được tăng phúc thọ, khỏi những điều tai họa khổ não, còn cha mẹ bảy đời trước thì khỏi bị khổ ngạ quỉ, được sinh trong cõi Nhân hay Thiên, hưởng phúc vui vẻ không cùng».
Từ đó về sau, cứ đến ngày rằm tháng bảy, các hàng Phật tử chí hiếu đều làm lễ Vu Lan để đền đáp công ơn cha mẹ dẫu còn sống hay đã mất. Ngoài ra, họ còn tưởng nhớ và chú nguyện cho cửu huyền thất tổ, các ân nhân, thân nhân, bạn bè, những người quen biết đã quá cố sớm được vãng sinh nơi Phật Quốc.
Phật giáo chân truyền dạy như thế. Nhưng tín ngưỡng nhân gian có pha trộn nhiều điều khác. Chẳng hạn, do ảnh hưởng của Đạo giáo, quần chúng cho rằng ngày ấy, ở âm phủ, quỉ sứ mở cửa địa ngục cho các vong hồn bay về dương thế để tha hồ ăn hưởng, rồi sau đó lại phải bay về âm phủ. Vì thế, họ nảy sinh lòng thương xót đối với các vong hồn. Dần dà tục cúng cô hồn tháng bảy trở thành một tập tục dân gian.
Mô tả lễ hội Vu Lan
Đầu tháng 7 âm lịch, Phật tử cũng như nhiều người ngoài Phật giáo, bắt đầu tưởng nhớ tới tổ tiên, cha mẹ, những người thân quen đã khuất bóng, một cách đặc biệt hơn bình thường. Nhiều người ăn chay, niệm Phật, làm phúc, đến chùa nghe thuyết pháp. Để chuẩn bị cụ thể hơn, người ta để dành tiền, quần áo, thực phẩm, thuốc men để cúng dường (= kính biếu) chư tăng ni vào ngày lễ, đồng thời để mua những đồ cúng tổ tiên trên bàn thờ suốt hai tuần cuối tháng 7.
Từ ngày áp lễ (ngày 14-7), bầu khí ở các chùa chiền đã bắt đầu nhộn nhịp tưng bừng hẳn lên. Nhiều Phật tử đã đến chùa để đảnh lễ Phật và cầu nguyện. Chung quanh chùa, người ta bày bán la liệt nhang hương, kinh Phật (nhất là kinh Vu Lan), các lồng chim (để phóng sinh), v.v… Bầu khí lễ lạc ở các chùa càng lúc càng làm cho tâm hồn người Phật tử lâng lâng, sốt sắng, như tiếp xúc được với thế giới vô hình.
Ngày rằm, chùa càng lúc càng đông người. Tới khoảng 11 giờ trưa, chùa đầy người: lễ Vu Lan bắt đầu cử hành. Ngoài sân cũng như trong chùa, các trường phương bảo cái (= cờ Phật giáo dạng phướn có lọng che) rải rác khắp nơi. Các cột trong chùa cũng treo cờ. Bàn thờ Phật, bàn thờ các Tổ đèn nến sáng chưng, hoa quả, nhang khói nghi ngút.
Một hồi trống bát nhã nổi lên báo hiệu lễ Vu Lan bắt đầu, mọi người im lặng. Trong chùa, ngoài các Phật tử đứng đối diện với tượng Phật ở chính điện, còn có nhiều tăng ni bận lễ phục trang trọng được mời ngồi trên ghế trước mặt các Phật tử. Vị sư trụ trì đứng ra nói vài lời khai lễ, rồi mời một vị thượng tọa trong số các tăng ni có mặt tại đó khai pháp. Vị này giảng ý nghĩa của lễ Vu Lan. Sau thời pháp là thời kinh: mọi người đều cùng nhau tụng kinh Vu Lan – nói về công ơn cha mẹ và bổn phận phải hiếu thảo đối với cha mẹ – một cách nhịp nhàng theo nhịp mõ.
Tụng kinh Vu Lan xong, các tăng ni được mời sang phòng Thọ Trai ăn một bữa cơm chay. Bất kỳ ai có mặt tại đó, dù không phải là Phật tử, nếu muốn, đều có thể cùng dùng bữa với các tăng ni(16). Sau lễ thọ trai, là nghi thức cúng dường còn gọi là lễ Tạ Pháp cũng tại phòng đó. Các tăng ni được các Phật tử cúng dường mỗi người một gói. Trong gói đó có thể là quần áo, mùng mền, thuốc men, thực phẩm, tiền bạc, hay những đồ vật thường dùng. Sau khi vị thượng tọa đại diện cho các tăng ni được cúng dường cám ơn các Phật tử, lễ Vu Lan chấm dứt. Tất cả mọi người ra về trong bầu khí tưng bừng vui vẻ. Buổi lễ kéo dài từ 11g00 đến 12g30 hay tới 1g00 trưa.
Những tăng ni được cúng dường thường là những vị có uy tín, được các Phật tử yêu mến, ở những vùng chung quanh, cũng có khi ở những tỉnh xa được mời tới. Những quà tặng đó là do các Phật tử tùy lòng hảo tâm đóng góp. Ý nghĩa của việc cúng dường là để tỏ lòng biết ơn đối với Tam Bảo (Phật–Pháp–Tăng) mà các vị là đại diện. Tại các chùa lớn, số các tăng ni được mời có thể lên tới hàng trăm. Tại các chùa nhỏ, có thể khoảng 20, 30 vị.
Sau lễ, các Phật tử đi vãng cảnh chùa, hết chùa này tới chùa khác. Họ có thể đi theo đoàn thể do chùa tổ chức để tham quan các cảnh chùa ở xa. Đó vừa là một cuộc hành hương, cầu nguyện, vừa là một cuộc giải trí mang tính cách hội hè.
Kể từ ngày rằm tháng 7 cho đến cuối tháng, các Phật tử ngày nào cũng đọc kinh Vu Lan tại bàn thờ gia đình hay tại chùa, đồng thời ăn chay niệm Phật, làm phúc bố thí, để tưởng nhớ, chú nguyện, và hồi hướng công đức cho cha mẹ ông bà và tất cả những người quá cố khác, kể cả những vong linh mồ côi vất vưởng đó đây (gọi là cô hồn). Trong nửa tháng này, bàn thờ Phật trong nhà lúc nào cũng trưng bày nhang đèn, bông hoa và ngũ quả (5 loại trái cây). Theo phong tục, gia chủ tùy nghi chọn riêng một ngày nào đó trong nửa tháng này để làm lễ cúng cô hồn ở phía trước nhà. Cúng xong, họ thường tung gạo, muối, trái cây, bánh kẹo, tiền bạc … – vừa được dùng làm lễ vật để cúng – ra bốn phương với ý nghĩa để các cô hồn hưởng dụng.
:icon1::icon1::icon1:
**** Phần chú thích
(1) Một số câu Kinh Thánh nói
– về việc thảo kính cha mẹ: Xh 20,12; Lv 19,3.32; Đnl 5,16; Cn 1,8-9; 6,20-23; 23,22; Mt 15,4; Mc 10,19; Lc 18,20; Ep 6,1-3; Cl 3,20; 1 Tm 3,4;
– về việc nghe những giáo huấn khôn ngoan của cha mẹ: Cn 4,1-11, 20-22; 5,1-2; 8,21-33; 27,11;
– về bổn phận vâng lời cha mẹ: Tv 119,9; Cn 3,1-3; 6,20-25.
– về gương thảo hiếu đối với cha mẹ của Chúa Giêsu: Ga 19,26-27; của bà Rút: R 1,16-18; v.v…
(2) Thần học «Tam Phụ» được nói đến lần đầu tiên trong cuốn «Phép Giảng Tám Ngày» (1651) của Alexandre de Rhodes, với những từ như «Ba Đấng Bề Trên», «Ba Đấng thưởng phạt», đi kèm với ba điều «phải» hay ba nghĩa vụ. Thần học này còn được nói đến trong «Hội đồng Tứ giáo» (không rõ tác giả, thế kỷ 18), trong thơ văn của linh mục Đặng đức Tuấn (1806-1874) và trong một số bản văn của Nguyễn trường Tộ (1830-1871). Các tác giả trên không viết nên một thần học về Tam Phụ, nhưng đã có những ý niệm chung về bộ ba những người cha này.
(3) Thượng Phụ là Cha ở trên, tức Ông Trời, hay Thiên Chúa. Trung Phụ là Cha ở giữa, tức Cha của đất nước, hay Vua hoặc Hoàng Đế cai trị nước. Hạ Phụ là Cha ở dưới, tức Cha Mẹ sinh ra ta ở dưới đất.
(4) THÍCH THIỆN HOA, Phật học Phổ thông, Thành Hội Phật giáo TP. Hồ chí Minh ấn hành 1992, quyển hai, trang 53-54.
(5) Xin đọc phần nguồn gốc lễ hội ở phần đọc thêm cuối bài.
(6) Xin đọc phần mô tả lễ hội ở phần đọc thêm cuối bài.
(7) Tại Việt Nam, vua thờ Trời tại Đàn Nam Giao, hiện vẫn còn di tích tại Huế.
(8) Đức Kitô đến làm cho khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người gần hẳn lại bằng cách dạy người ta gọi Thiên Chúa là «Cha», điều này có thể bị người Do Thái xưa – cũng là người Đông Phương – coi là một xúc phạm đối với Thiên Chúa. Hơn thế nữa, Ngài còn cho biết Thiên Chúa ngự ngay trong thâm cung tâm hồn con người.
(9) Tương tự như có hai món quà biếu cho hai người. Cứ bình thường thì món quí hơn dành cho người lớn hơn, và món ít quí dành cho người nhỏ hơn. Nhưng nếu người lớn hơn không nhận, thì món quà quí nhất kia đương nhiên được chuyển xuống người nhỏ hơn. Biếu món quà quí hơn cho người nhỏ hơn trong trường hợp này không có nghĩa là coi thường người lớn hơn.
(10) Lễ Vu Lan là một lễ hội tuy có nguồn gốc Phật giáo, nhưng nay đã trở thành một lễ hội dân gian, mang tính văn hóa dân tộc
(11) Chẳng hạn vào ngày rằm tháng 7 âm lịch:
– tại nhà thờ, có thánh lễ trọng thể cầu nguyện cho cha mẹ còn sống, và ông bà tổ tiên đã khuất, với những panô hay biểu ngữ về lòng hiếu thảo
– tại nhà thờ hay tại mỗi gia đình (hoặc liên gia đình), có buổi đọc kinh chung ban tối đặc biệt cầu nguyện cho cha mẹ tổ tiên.
– tại các gia đình, nên trưng hoa đèn một cách đặc biệt tại bàn thờ gia tiên.
– v.v…
(12) Nếu thấy không thuận lợi trong nhà thờ, thì có thể trong khuôn viên nhà thờ.
(13) Ngày Tự Tứ: Ngày chư tăng phê bình sửa lỗi cho nhau.
(14) An Cư Kiết Hạ: Thời gian (ba tháng) Phật qui định chư tăng ở mỗi địa phương phải hội về một nơi thuận tiện để chuyên tu mỗi năm, từ 16-4 đến 15-7 âm lịch.
(15) Chú nguyện: Chú = chú ý, tập trung tư tưởng hay năng lực tinh thần vào việc gì; Nguyện = cầu mong, ước muốn. Chú nguyện là tập trung hết năng lực tinh thần của mình để ước muốn điều gì.
Chú nguyện khác với cầu nguyện ở chỗ: chú nguyện là dùng chính sức mạnh tinh thần của mình để thực hiện hay đạt được điều mình muốn; còn cầu nguyện là xin Thiên Chúa hay thần linh thực hiện điều mong ước ấy.
(16) Đây là một đặc điểm rất hay của Phật giáo: vào những ngày mùng 1 và ngày rằm mỗi tháng, mọi người tới tham dự các lễ hội – dù không phải là Phật tử – đều có thể dùng cơm chay trong chùa trước khi ra về. Đây là một điều gây rất nhiều thiện cảm nơi người dân, khuyến khích cả những người ngoài tôn giáo đến dự các lễ hội, nhờ đó họ được nghe những điều hay lẽ phải trong Phật giáo, và giáo lý của Phật ảnh hưởng trên đời sống họ.
|
|