|
Chương I: Kẻ bắt đạo và con người bạo lực (1Tm 1,13)
Phần ông Sao-lô, ông tán thành việc giết ông Tê-pha-nô. Hồi ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri. Có mấy người sùng đạo chôn cất ông Tê-pha-nô và khóc thương ông thảm thiết. Còn ông Sao-lô thì cứ phá hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục (Cv 8,1-3)
Phaolô, cũng được gọi là Saolô (Xc. Cv 13,9) không phải là người có tính khí ôn hòa để dễ dàng thực thi đức kiên nhẫn. Trước khi trở lại, ông là người “hằm hằm đe dọa giết các môn đệ Chúa” (Cv 9,1).
Thánh Luca xác định ông Saolô “tán thành việc giết ông Stêphanô” (Cv 8,1), như chính ông xác nhận khi công khai bày tỏ với những người Do Thái ở Giêrusalem: “khi máu của ông Stêphanô, chứng nhân của Chúa, đổ ra, thì chính tôi cũng có mặt, tôi tán thành và giữ áo cho những kẻ giết ông ấy” (Cv 22,20; Xc. 7,58).
Sau cái chết của ông Stêphanô, Hội Thánh ở Giêrusalem bị bắt bớ dữ dội”, còn ông Saolô thì “vào từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục” (Cv 8,2-3).
Điều này được Đức Giêsu xác nhận, khi Người đặt câu hỏi với ông Saolô trên đường đến Damas: “Saun, Saun, sao ngươi bắt bớ Ta?”. Ông hỏi: “thưa Ngài, Ngài là ai?”. Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ!” (Cv 9,4-5).
Trong lần biện hộ đầu tiên trước những người Do Thái ở Giêrusalem, ông Phaolô khiêm nhường thú nhận: “tôi đã bắt bớ Đạo này, đến nỗi giết kẻ theo đạo, đã xiềng xích và tống ngục đàn ông cũng như đàn bà, như cả vị thượng tế lẫn toàn thể đoàn kỳ mục làm chứng cho tôi. Tôi còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em, và tôi đã đi Đamat để bắt trói những người ở đó, giải về Giêrusalem trừng trị” (Cv 22,4-5; Xc. 9,1-2).
Còn ông Khanania, người được Chúa mời đi tới Damas để đặt tay trên ông Saun và làm cho ông Saun nhìn thấy được, đã ngần ngại hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con đã được nghe nhiều kẻ nói về người ấy về tất cả những điều ác người ấy đã làm cho các thánh của Chúa tại Giêrusalem. Còn ở đây, người ấy được các thượng tế cho quyền bắt trói tất cả những ai kêu cầu danh Chúa” (Cv 9,13-14).
Quá khứ của ông Saolô là trở ngại trong bước khởi đầu đi rao giảng, như chính Đức Giêsu mạc khải cho ông khi ông đang xuất thần cầu nguyện trong đền thờ: “mau lên, hãy rời khỏi Giêrusalem gấp, vì chúng sẽ không chấp nhận lời anh làm chứng về Thầy đâu… Hãy đi, vì Thầy sẽ sai anh đi xa, đến với các dân ngoại”. Và ông Phaolô hăng hái đón nhận: “Lạy Chúa, chính họ biết rõ con đây đã đến từng hội đường bắt giam và đánh đòn những kẻ tin vào Chúa. Khi máu của ông Stêphanô, chứng nhân của Chúa, đổ ra, thì chính con cũng có mặt, con tán thành và giữ áo cho những kẻ giết ông ấy” (Cv 22,18-21).
Trong lần biện hộ thứ ba trước vua Agripa, ông Phaolô xác nhận: “về phần tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách để chống lại Danh Giêsu người Nazarét. Đó là điều tôi đã làm tại Giêrusalem. Được các thượng tế ủy quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong các thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ phiếu tán thành. Nhiều lần tôi đã đi khắp các hội đường, trừng trị để cưỡng bức họ nói phạm thượng. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang cả các thành ở nước ngoài mà bắt bớ họ” (Cv 26,9-11).
Mối ân hận vì đã bách hại các môn đệ Chúa Kitô luôn giày vò tâm hồn ông, như có thể đọc thấy trong thư gửi giáo đòan Côrintô: “tôi là người hèn mọn nhất trong số các tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đồ, vì đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa” (1Cr 15,9). Đồng thời, ông ôn tồn ý thức rằng “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ra ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ” (Gl 1,15).
Khi chống lại những kẻ muốn làm lung lạc đức tin của các tín hữu thành Philíp về vấn đề phép cắt bì, ông đã kể lại thái độ cực đoan của mình trong quá khứ và nói rõ ông là người “hăng say ngược đãi Hội Thánh” (Pl 3,6).
Ông cũng nhắc lại điều này với các tín hữu Galát: “Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do Thái; tôi đã quá hăng say bắt bớ và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa; tôi đã tiến xa trong đạo Do Thái, vượt nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi, vì quá đỗi nhiệt thành với các truyền thống của cha ông” (Gl 1,13-14). Sau đó ông kể lại cho họ biết rằng “các Hội Thánh trong Đức Kitô tại miền Giuđê không biết mặt ông, nhưng cũng nghe biết ông là người bắt bớ những ai tin theo Đức Kitô” (Xc. Gl 1,22-23).
Ông còn thú nhận với môn đệ Timôthê: “Trước kia tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược”, và ông cũng cảm tạ Chúa bởi ông đã được Chúa “thương xót, vì tôi đã hành động vô ý thức, khi chưa có lòng tin” (1Tm 1,12-13,16).
Tất cả những ai biết ông đều lo ngại về quá khứ của ông. Thật vậy, sau cuộc trở lại khi ông công bố giữa hội đường rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, “mọi người nghe ông giảng đều sửng sốt và nói: “Ông này chẳng phải là người ở Giêrusalem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu Danh Giêsu sao? Chẳng phải ông đã đến đấy với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng tế sao?” (Cv 9,21).
Để hiểu được tinh thần mà vì thế ông Phaolô bách hại Hội Thánh, cần phải nhớ rằng ông từng là thành viên của phái Pharisêu, phái “nghiêm nhặt nhất” trong Do Thái Giáo, nhóm tuyên bố rằng mình là đại diện cho Israel đích thực (xc. Cv 26,5-6). Chính ông thú nhận mình đã từng thuộc phái Pharisêu, giữ luật như người Pharisêu (Xc. Pl 3,5), quá đỗi nhiệt thành với các truyền thống của cha ông” (Gl 1,14).
Phaolô luôn tự nhận mình là thành phần dân Israel. Ông luôn khao khát rằng “Dân của lời hứa” (xc. Rm 15,8; Cv 13,32; 26,6) có thể lãnh nhận ơn cứu độ được ban cho Israel và mọi dân khác, qua tác vụ của ông (xc. Rm 11,13-14). Nỗi khao khát ấy thiêu đốt ông đến nỗi ông mong muốn đi đến tận cùng, ước gì “bị tru diệt, xa lìa Đức Kitô vì các anh em đồng bào của tôi theo huyết thống” (Rm 9,3).
Biến cố trên đường Damas là biến cố làm đảo lộn, tác động hoàn toàn tâm trạng của Phaolô. Đó là sự thay đổi toàn diện và tức khắc: từ nhiệt thành với lề luật, ông chuyển sang lòng nhiệt thành với Đức Kitô (xc. Gl 1,15-17), làm mọi sự có thể để đáp lại lời mời của Đức Kitô (xc. Pl 3,12-14). |
|