Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 7 trên 7

Chủ đề: Thánh Phaolô, từ một người bách hại, và một người của bạo lực, đến mẫu gương vĩ đại nhất về lòng kiên nhẫn

Threaded View

  1. #3
    Teacher's Mập
    Khách viếng
    Teacher's Mập's Avatar

    Default

    Chương II: Anh em hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường (Mt 11,29)

    Ông Sao-lô vẫn còn hằm hằm đe doạ giết các môn đệ Chúa, nên đã tới gặp thượng tế xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Đa-mát, để nếu thấy những người theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giê-ru-sa-lem. Vậy đang khi ông đi đường và đến gần Đa-mát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Ông nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người đáp: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ. Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì.” Những người cùng đi với ông dừng lại, sững sờ: họ nghe có tiếng nói, nhưng không trông thấy ai. Ông Sao-lô từ dưới đất đứng dậy, mắt thì mở nhưng không thấy gì. Người ta phải cầm tay dắt ông vào Đa-mát. Suốt ba ngày, ông không nhìn thấy, cũng chẳng ăn, chẳng uống. (Cv 9,1-9)

    Ngay sau khi trở lại, ông Phaolô đã nhận được giáo huấn từ Đức Giêsu là Thầy như Người đã được mọi người nhìn nhận (xc. Ga 13,13; Mt 19,16; 22,16,36; Mc 9,5,17,38; Lc 7,40; 17,13; Ga 3,2; 11,28). Thật vậy, chỉ một mình Đức Giêsu là Thầy chân thật (xc. Mt 23,8). Ông Phaolô đã đón nhận toàn bộ tư tưởng của Thầy đến nỗi ông có thể nói lên: “tôi sống, nhưng không còn phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

    Để hiểu được toàn bộ cuộc đời của Phaolô, với những khoảnh khắc anh hùng về lòng kiên nhẫn và sứ điệp của ông về nhân đức này, cần phải nhắc lại chứng cớ và giáo huấn của Thầy Giêsu về đề tài này.

    Không ai có thể sánh với Đức Giêsu trong việc thực thi đức kiên nhẫn. Do vậy, chính Người nêu lên Người là mẫu gương của sự kiên trì: “anh em hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Rất nhiều đoạn Tin mừng[1] minh họa chân lý này[2].

    Đức Giêsu trách mắng hai ông Giacôbê và Gioan vì không đủ nhẫn nại và muốn trả thù khi muốn xin lửa từ trời xuống đốt cháy ngôi làng Samaria đã không đón nhận Thầy của các ông (xc. Lc 9,51-55). Người cũng có thái độ tương tự khi ông Phêrô chém đứt tai phải của Mancô trong Vườn Cây Dầu (xc. Ga 18,10).

    Đức Giêsu tỏ ra nhẫn nại vô bờ khi sống với các môn đệ, những người thường tỏ ra là kém đức tin (xc. Mt 6,30; 8,26; 14,31; 16,8; Lc 8,24-25; 12,28; Mc 4,39-40; 8,17) và tràn đầy sợ hãi (xc. Mt 8, 25-26; Mc 4,39-40; 6,49; 9,32; Lc 24,37,41; Ga 6,19). Một số người trong họ cho rằng sứ điệp của Thầy khó chấp nhận và lìa bỏ Người (xc. Ga 6,60, 66). Ông Phêrô cũng thường phản đối (xc. Mt 16,22; Ga 13,8). Hai anh em ông Giacôbê và Gioan muốn tìm chỗ nhất (xc. Mt 20,20-23; Mc 10,35-40), nhưng đến khi ở Vườn Cây Dầu, các ông không thể tỉnh thức để chia sẻ với Thầy, người đang “buồn đến chết được” (xc. Mt 26,38-40). Khi Đức Kitô chịu khổ nạn, tất cả chạy trốn, bỏ lại Người một mình (xc. Mt 26,56; Ga 16,21). Họ “chưa hiểu, chưa thấu” và “lòng chai đá” (xc. Mc 8,17-18). Giuđa phản bội Người (xc. Mt 27,47-50) còn Phêrô thì chối Thầy (xc. Mt 26,69-74). Các ông không tin câu chuyện ngôi mộ trống do Maria Macđala thuật lại (xc. Mc 16,11,14), coi đó là “chuyện vớ vẩn” (xc. Lc 24,11), vì các ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết” (Ga 20,9; XC. Lc 24,25-27, 44-46). “Các ông hoài nghi”, khi Đấng Phục Sinh hiện ra với các ông ở Galilê (xc. Mt 28,17). Ông Tôma nhấn mạnh phải có chứng cớ về sự phục sinh (xc. Ga 20,24-25). Các môn đệ trên đường Emmaus “buồn rầu” và không chút hy vọng (xc. Lc 24,17, 21).

    Tuy nhiên, Đức Giêsu “đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó” (Cv 10,38). Người đón tiếp các tội nhân với lòng thương cảm và yêu mến (xc. Mt 9,10-11; 11,19; Lc 15,12), dù rằng Người bị coi như là “dấu chỉ của sự mâu thuẫn” (xc. Lc 2,34), “vì Người mà đám đông đâm ra chia rẽ” (xc. Ga 7,43; 10,19). Người không chống lại khi người ta cáo buộc là “bị quỷ ám” (xc. Ga 10,20; 7,20; 8,48,52; Mt 12,24; Mc 3,22) hay là “tên bịp bợm” (xc. Mt 27,63), “điên khùng” (xc. Ga 10,20; Mc 3,21), “kẻ lộng ngôn” (xc. Ga 10,33; Lc 5,21; Mt 9,3; 26,65; Mc2,6), “người xách động” (xc. Lc 23,2), “là người Samari – tức là lạc giáo” (xc. Ga 8,48), “tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (xc. Lc 7,34), là “người có tội” (xc. Ga 8,46).

    Nhất là Đức Kitô tỏ ra kiên nhẫn cách lạ thường khi chịu khổ nạn. Trong Vườn Cây Dầu, sau khi xin với Cha cứu Người khỏi đau khổ, Người khiêm tốn đặt mình hoàn toàn tuân phục thánh ý Cha, với sự cam chịu tột cùng: “xin cho ý Cha được thể hiện” (Mt 26,42), và “xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36).

    Đức Giêsu “không làm điều gì sai trái” (Lc 23,41). Thật vậy, ngay cả Philatô cũng “không tìm thấy lý do gì để kết tội Đức Giêsu” (Ga 19,6). Mặc dù Người hoàn toàn vô tội (xc. Mt 26,61; 27,12), nhưng khi bị vu cáo (xc. Mt 26,61; 27,12), bị chế nhạo, bị xỉ nhục (xc. Mt 27,39-44; Lc 22, 63-65), và bị khạc nhổ (xc. Mt 26,67-68; 27,30; Mc15,19; Lc 22,63; Ga 18,22), Người vẫn giữ “yên lặng”, như bốn sách Tin mừng đã làm chứng (xc. Mt 27,14; Mc 14,60; Lc23,10; Ga 19,8). Các Tin mừng đều lặp đi lặp lại đức kiên nhẫn của Đức Giêsu qua giáo huấn của Người.

    Chương trình về kiên nhẫn do Đức Giêsu công bố, được bày tỏ trong “Tám mối phúc thật” hay còn được gọi là “Đại Hiến Chương của Kitô giáo”. Bài giảng trên núi cho thấy có những loại người được chúc phúc: đó là những người có tinh thần nghèo khó, “vì Nước Trời là của họ”; những người sầu khổ “vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”; Những người hiền lành “vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”; những người khát khao nên công chính “vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng”; những ai xót thương người “vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”; những ai có tâm hồn trong sạch “vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”; những ai xây dựng hòa bình “vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”; những ai bị bách hại vì sống công chính “vì Nước Trời là của họ”. Đức Giêsu đặc biệt nói đến loại người cuối cùng này, như muốn nhấn mạnh rằng những ai muốn theo Người phải biết thực thi đức kiên nhẫn, nhất là trong khi bị bách hại: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta xỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5,3-11).

    Những người môn đệ Đức Kitô phải bày tỏ lòng yêu mến những kẻ bách hại mình: “anh em đã nghe luật dạy rằng: hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44). Họ không được nuôi lòng giận dữ với anh em mình, vì “ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa”… “nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,22-24).

    Kitô hữu phải biết cách kiên nhẫn đón nhận mọi điều bất công. Khía cạnh mới của sứ điệp Tin mừng trong tương quan với giáo huấn truyền thống (của người Do thi) được sng tỏ trong cách đáp trả sự ngược đãi của thù địch: “anh em đã nghe Luật dạy rằng: mắt đền mắt, răng đền răng, còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác; trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5,39).

    Đức Giêsu cũng cho thấy những khía cạnh khác nhau của đức kiên nhẫn qua một số dụ ngôn. Trong dụ ngôn cỏ lùng, Đức Giêsu muốn dạy cho các môn đệ của Người biết kiên nhẫn trước mầu nhiệm sự dữ[3]. Còn trong dụ ngôn cây vả không ra trái, Người muốn gợi lên sự nhẫn nại thông cảm[4]. Trong dụ ngôn mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể, Người muốn khuyến khích các thính giả biết kiên trì chờ đợi[5]. Câu chuyện người gieo giống tung gieo hạt giống ở mọi nơi cho thấy sự kiên trì cuối cùng sẽ được ân thưởng[6]. Đức kiên trì cũng được thể hiện nơi người mục tử và người đàn bà khi cố công tìm kiếm con chiên lạc cũng như đồng bạc bị đánh rơi (Lc 5,4-10).

    Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa và sự thiếu kiên nhẫn của con người được minh họa rõ ràng trong dụ ngôn quen thuộc “người con hoang đàng”, một trong những kiệt tác về văn chương của thế giới (xc. Lc 15,11-32). Cũng vậy, dụ ngôn về tên đầy tớ không có lòng thương xót cũng làm rõ sự tương phản giữa một Thiên Chúa nhân từ kiên nhẫn với con người không có lòng xót thương[7].

    Những kẻ nào không biết đợi chờ thì không thể có đức kiên trì. Trong bữa ăn tối cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu nói với các ông: “anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan”, và do đó Người bảo đảm với các ông là họ xứng đáng gia nhập Vương Quốc[8]. Và để tránh mọi sự hiểu lầm, Người thêm: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”[9]


    [1] Bản văn đầu tiên của Tin mừng Matthêu đựơc viết bằng tiếng Aram vào khỏang năm 64, nhưng không được lưu truyền tới chúng ta. Vào những năm từ 70-80, bản văn này được dịch ra tiếng Hylạp nhờ vào Tin mừng Maccô. Điều này giải thích tại sao có nhiều nét tương đồng giữa hai bản văn. Tin mừng Máccô,có lẽ, được viết vào khỏang 65. Tin mừng Luca xuất hiện khỏang 70-80, còn Tin mừng Gioan vào khỏang 90-50.
    Cả 4 bản văn Tin mừng theo tiếng Hy lạp xử dụng tổng cộng 64. 327 từ, được phân chia như sau.
    Tin mừng Luca: 19. 404 với 2. 055 từ căn bản được lập đi lập trong 24 chương.
    Tin mừng Matthêu: 18. 278 với 1. 691 từ căn bản trong 28 chương.
    Tin mừng Gioan: 15. 146 với 1. 011 từ căn bản trong 21 chương.
    Tin mừng Maccô: 11. 229 với 1. 346 từ trong 16 chương.
    [2] Tin mừng ghi lại nhiều cách diễn tả khác nhau của Đức Giêsu được xem như coi như nói về thái độ không kiên nhân (Xc. Mc 3,5; 9,19; 10,14; 15,17; Mt 16,4. 23; 21,18-19; Ga 3,36). Trong thực tế, mỗi tác giả sách Tin mừng đã đưa ra những giải thích cá nhân với ngôn ngữ của nhân loại về một số hoạt động của Thầy. Đó là vấn đề của trường hợp tương tự liên quan đến hình ảnh của Đức Chúa được nói đến trong Cựu ước, trong đó các người viết đã gán cho Thiên Chúa những cảm nghĩ của lòai người. Do vậy, chẳng hạn thánh Matthêu gán cho con người Đức Kitô sự đối lập trong các giáo hội tiên khởi và hội đường và đã thốt ra 7 nỗi khổ mà trong đó âm thanh được xem là lời nguyền rủa chống lại luật sỹ và biệt phái. Người nhiều lần gọi họ là: “những kẻ giả hình, quân dẫn đường mù quá, đồ ngu si, mồ mả tô vôi, đồ mãng xà, nòi rắn độc” (Xc. Mt 23,13-36; Lc 11,39-48. 25).
    [3] Đức Giêsu ví nước trời như người gieo giống gieo hạt giống tốt trên ruộng mình, nhưng khi ông ta ngủ, kẻ thù đến gieo cỏ lùng…. (Xc. Mt 13,24-31).
    [4] Thi hành đức kiên nhẫn qua việc đợi chờ và hiểu biết là thái độ của người đầy tớ khiêm tốn thưa với chủ: xin ông hoãn quyết định chặt cây vả (Xc. Lc 13,6-9).
    [5] Nước trời đựơc ví với 10 cô trinh nữ cầm đèn đón chàng rể, trong đó có 5 cô khờ và cô khôn… (Xc. Mt 25,1-13; Lc 12,32-48).
    Tương tự như thế, các đầy tớ trung thành chờ đợi chủ trở về được gọi là người có phúc (Xc. Lc 12,35-38; Mt 24,45-51).
    [6] Minh chứng cách đặt biệt là sự kiên trì của người gieo giống, mặc dù công việc không đạt kết quả, ông vẫn tiếp tục gieo cho đến khi hạt giống rơi vào đất tốt và sinh được 100 (Xc. Lc 8,4-8; Mt 13,1-9; Mc 4,1-9).
    [7] Hai tình huống trái ngược trong đó người đầy tớ đã không đủ kiên nhẫn với bạn mình, đangkhi anh ta đựơc chủ tha thứ (Xc. Mt 18,23-34).
    [8] Lc 22,28-29.
    [9] Lc 21,19

  2. Có 3 người cám ơn Teacher's Mập vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com