|
Chương VI: Lòng yêu mến thì nhẫn nhục (1Cr 13,4)
Đêm ấy Chúa đến bên ông Phao-lô và nói: “Hãy vững lòng! Con đã long trọng làm chứng cho Thầy ở Giê-ru-sa-lem thế nào, thì con cũng phải làm chứng như vậy tại Rô-ma nữa.” (Cv 23,11)
Các thư của thánh Phaolô áp dụng giáo huấn của Đức Kitô về đức kiên nhẫn vào những hoàn cảnh cụ thể của các cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai.
Thánh nhân nói cho Giáo Hội tại Côrintô biết rằng đức ái là phương tiện hữu hiệu nhất để giải quyết những chia rẽ (xc. 1Cr 1,10-12), nguồn gốc của sự đổ vỡ giữa các nhóm (xc. 1Cr 6,1-6; 11,18-22) và các cá nhân (xc. 1Cr 8,13; 10,23,29).
Trong “bài ca đức ái” thời danh, Thánh Tông Đồ kể đến đức kiên nhẫn như là đặc tính đầu tiên của đức ái Kitô giáo: “lòng yêu mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không kiêu ngạo, không làm điều khiếm nhã, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nghĩ điều xấu, không vui mừng trước sự bất chính, nhưng vui mừng vì điều chân thật. Lòng yêu mến dung thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7). Trong bài ca này, Thánh Phaolô họa lên hình ảnh về chính mình: “điều ngài đã học được từ chính Đức Kitô và cách hành động của Người.
Theo thánh Phaolô, đức kiên nhẫn là thành phần của cuộc sống được ghi dấu bởi tình yêu, như được nhấn mạnh qua lời khuyến khích sau đây: “lòng yêu mến không được giả dối…, hãy thương mến nhau với tình huynh đệ…, hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa… Đừng lấy ác báo ác, hãy quan tâm làm điều thiện trước mặt mọi người. Anh em hãy làm tất cả những gì có thể, để sống hoà thuận với mọi người. Anh em yêu quý, đừng tự mình báo oán, nhưng hãy để cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa làm việc đó… Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12,9-10,14,17-21). Sau cùng thánh nhân khích lệ các độc giả hãy luôn nhìn ngắm mẫu gương là Đức Kitô và khơi dậy lòng trông cậy nhờ đức kiên nhẫn (hypomoné) (xc. Rm 15,4). Thánh nhân nhắc nhở họ: “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được hiệp lòng hiệp ý với nhau, như Đức Kitô đòi hỏi” (Rm 15,5).
Thay vì cãi lý với nhau, thì điều cần thiết là “hãy chiều theo sở thích người thân cận, nhằm mục đích tốt” (Rm 15,2) và đón nhận người khác như Đức Kitô đã làm, tức là trở thành người phục vụ kẻ khác (xc. Rm 15,7-8). Lý do tối thượng của lòng kiên nhẫn là mẫu gương và giáo huấn của Đức Kitô. Chỉ trong Đức Kitô mới có được sự kiên trì (hypomoné) của các thánh (Kh 13,10; 14,12).
Thánh Tông Đồ nhắc lại rằng trước Đức Kitô, đền thờ là nơi “Thiên Chúa thể hiện lòng khoan dung (anoché) (Rm 3,26), tức làThiên Chúa hết lòng kiên nhẫn chịu đựng” (Rm 9,22) đối với mọi người để bày tỏ lòng thương xót. Sau đó thánh nhân khẳng định là muốn được cứu độ cần phải kiên trì làm điều thiện” (Rm 2,7) và cảnh báo các cộng đòan “không được khinh thường lòng nhân hậu, khoan dung, kiên nhẫn dồi dào của Thiên Chúa” (Rm 2,4) bởi vì “từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô đạo và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm sự thật” (Rm 1,18) và “của những người không vâng phục Người Con” (Ga 3,36).
Sứ điệp Kitô giáo dựa trên đức tin vào Thiên Chúa đồng thời trên đức khiêm nhường và lòng yêu mến đối với người khác. Một cuộc sống hài hoà đòi buộc phải có khả năng trao đổi với mọi người thuộc mọi nguồn gốc, mọi nền giáo dục và đào tạo khác nhau. Thật ra, sống hòa đồng với nhau không phải là chuyện dễ dàng đâu; điều này đòi phải biết chờ đợi và thông cảm. Về vấn đề này, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu Thêssalônica “hãy kiên nhẫn với mọi người”, nhất là với những người vô kỷ luật, nhút nhát, yếu đuối và cả với những người (theo mạch văn) gây ra sự đau khổ (1Tx 5,14).
Với những người được coi là kẻ thù, người Kitô hữu không xử sự theo cảm tính, nhưng do tình yêu tức là lòng kiên nhẫn, sự thông cảm và tính quảng đại: “Đừng có ai lấy ác báo ác, nhưng hãy luôn cố gắng làm điều thiện cho nhau cũng như cho mọi người” (1Tx 5,15; X. Rm 12,17; 1Pr 3,9, 11,17). Sau cùng thánh nhân cầu chúc cho mọi người: “Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em yêu mến Thiên Chúa và kiên nhẫn chịu đựng như Đức Kitô” (2Tx 3,5).
Các hành động của người khác, dù sai lầm và bất chính, cũng không thể làm xáo trộn sự an bình sâu xa của người có lòng tin. Bất kể mọi sự, người Kitô hữu luôn chứng tỏ họ có niềm vui (xc. 1Tx 5,16) và luôn nỗ lực trong lời cầu nguyện và tạ ơn (xc. 1Tx 5,17-18). Ngay cả khi chứng kiến cái chết của người thân, người Kitô hữu cũng không đánh mất niềm hy vọng, hay rơi vào tình trạng bất an (xc. 1Tx 4,13). Ở phần cuối, thánh Phaolô kết luận với lời khẩn cầu: “Xin Thiên Chúa là nguồn bình an thánh hoá toàn diện con người anh em” (1Tx 5,23). Bình an là nét riêng của tâm hồn người Kitô hữu, ngay cả trong những thời khắc đen tối nhất.
Thực vậy, đời sống của người tín hữu tại thành phố Thessalônica không phải là dễ dàng, nhưng đức tin và lòng mến của họ vẫn không thiếu. Họ đã được vững mạnh nhờ những bách hại và thử thách “xảy đến cho họ vì Tin Mừng” (xc. 1Tx 1,3-4). Tình hình có thể trở nên xấu và tệ hơn, nhưng người Kitô hữu không ngừng thực thi điều tốt theo lời khuyên rõ ràng của thánh Phaolô: “đừng nản chí khi làm điều thiện” (2Tx 3,13), và lời cầu nguyện: “bình an mọi lúc về mọi phương diện” (2Tx 3,16). Bình an là bằng chứng của tâm hồn tràn đầy hiền hoà, bao dung và kiên nhẫn.
Thánh Phaolô cũng nhận thấy tín hữu Galat đang cần có bình an, vì hiện có tranh luận về tương quan giữa Do thái giáo và Kitô giáo. Mối tương quan này đã nóng lên đến mức những người trong cuộc “cắn xé và ăn thịt nhau” (Gl 5,15). Thánh nhân kêu gọi họ “từ bỏ những việc do tính xác thịt”, tức là mọi thứ tật xấu (xc. Gl 5,19), và “bước đi nhờ Thần Khí”, được Thần Khí hướng dẫn, với những hoa trái là: “bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, nhân hậu, hảo tâm, trung tín, hiền hoà và tiết độ” (Gl 5,18, 22,25). Chỉ trong đường lối này mà chương trình đời sống của thánh Phaolô được hoàn thành: “Anh em hãy mang lấy gánh nặng của nhau” (Gl 6,2).
Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, thánh nhân trở lại với đề tài này và yêu cầu: “Tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi anh em đã nhận được. Với tất cả lòng khiêm tốn, hiền hoà và kiên nhẫn, anh em hãy lấy lòng yêu mến mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hợp nhất mà Thần Khí ban cho nhờ mối dây liên kết là sự bình an. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng khi anh em được kêu gọi” (Ep 4,1-4).
Để hiệp nhất, cần phải “phục tùng lẫn nhau vì lòng kính sợ Đức Kitô”. Cách đặc biệt, vợ chồng hãy tùng phục lẫn nhau (xc. Ep 5,21-25), và con cái phải vâng phục cha mẹ (xc. Ep 6,1). Nô lệ cũng phải chấp nhận tình trạng của mình “với lòng đơn sơ” và cam chịu, xác tín rằng mình đang thi hành thánh ý Chúa (xc. Ep 6,5-8). Thánh Phaolô không nghi ngờ gì khi khuyên dân chúng đón nhận tình trạng hiện tại với lòng cam chịu và yêu mến, coi đó như là ý Thiên Chúa. Vì thế thánh nhân không ngần ngại trình bày và nhấn mạnh đề nghị của mình. Đang khi Thánh Phêrô nêu lên lý lẽ thần học về sự tùng phục: ngài khuyên những người nô lệ hãy kiên nhẫn với những người chủ của mình, dù rằng có “khó khăn”. Nếu vì lòng tin kính Thiên Chúa mà chấp nhận những nỗi khổ phải chịu một cách bất công thì đó là ân huệ (1Pr 2,19). Chịu đựng đau khổ như mình đáng chịu thì chẳng có công trạng hay lợi ích gì.
Còn Thánh Phaolô kêu mời dân chúng chuẩn bị sống kiên nhẫn như ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi: “anh em hãy loại trừ mọi chua cay, gắt gỏng, giận hờn, hay la lối thoá mạ, cùng với mọi thứ gian ác. Hãy đối xử tốt với nhau, có lòng thương xót và tha thứ cho nhau, cũng như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,31-32). Rồi thánh nhân thêm: “chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Giận dữ là dấu chỉ của thái độ không kiên nhẫn.
Đức kiên nhẫn là yếu tố cần thiết để mỗi người tiếp cận với các biến cố của cuộc sống, và càng trở thành yếu tố quan trọng hơn trong cuộc sống hằng ngày của mỗi Kitô hữu nếu họ muốn được bình an và hợp nhất. Như thế, đức kiên nhẫn được nối kết với “đức hiền hòa” và “lòng khiêm hạ” nhằm xây dựng cộng đoàn (xc. Ep 4,2,12). Thánh nhân nói thêm: “hãy sống trong lòng yêu mến”, theo mẫu gương Đức Kitô để lại (Ep 5,2).
Sự dữ có thể tạo nên bất hòa. Vì vậy, phải “tỉnh thức và chuyên cần cầu xin” (Ep 6,18). Do đó, kiên nhẫn là động lực hướng dẫn sự hòa hợp trong cộng đoàn và trong đời sống trung thành với Tin Mừng. Khước từ đón nhận những biến cố và gánh nặng của cuộc sống sẽ dẫn tới bất ổn và sẽ chẳng có bác ái lẫn bình an.
Trong thư gửi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô vẫn quan tâm tới chiều hướng thần học và mục vụ. Có ai đó muốn gieo rắc sự lầm lạc trong những thành viên của cộng đoàn (xc. Cl 2,8), nên thánh nhân kêu gọi các tín hữu hãy chú ý, đồng thời nhắc lại cho họ biết điều Thiên Chúa muốn về họ. Họ được kêu mời để “biết” và “am tường” về Thánh Ý Người, và cố gắng “sống xứng đáng với Thiên Chúa”. Điều quan trọng chính là hiểu biết sâu xa về “sự thật” (Tin Mừng) (xc. Cl 1,6,9), đừng để mình đi lạc vào những lý luận triết học, mà là hành động đúng đắn, làm việc lành (xc. Cl 1,10), không mệt mỏi và không bao giờ bỏ cuộc. Hành động như thế đòi phải có sức mạnh và trên hết là “kiên trì và nhẫn nại” (xc. Cl 1,11).
Kiên nhẫn là điều thiết yếu để các hoạt động bên trong của cộng đoàn không bị hư hoại. Trước kia, con người được phân biệt tuỳ theo loại (nô lệ hay tự do, Do Thái hay Hy Lạp, người cắt bì hay không cắt bì, người man di, mọi rợ) còn điều làm cho trở thành “con người mới” là từ bỏ “nếp sống cũ và các thực hành của nó”, tức là giận dữ, phẫn nộ, độc ác, thóa mạ, ăn nói thô tục”, để mặc lấy “tâm tình thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và kiên nhẫn,… chịu đựng lẫn nhau… và tha thứ cho nhau” (Cl 3,8,12-13).
Kiên trì là nhẫn nại trong nếp sống mới này; đó là bao dung và quảng đại đối với những người trở thành bạn đồng hành mới trong cuộc sống thường ngày, những người thuộc các nguồn gốc khác nhau và chưa sống đúng với ơn gọi của họ.
Trong hai lá thư gửi cho ông Timôthê và trong lá thư gửi ông Titô, kiên nhẫn được kể đến như một đặc trưng của người chăm sóc các linh hồn. Ông Timôthê là “người của Thiên Chúa” nên không được kiêu căng, tự cao tự đại, cũng không được tranh luận bằng những lời lẽ “gây đố kỵ và bất đồng”. Ông phải theo đuổi “sự công chính, lòng đạo đức, lòng tin, lòng yêu mến, lòng kiên trì, và lòng hiền hậu” (1Tm 6,11). Trên tất cả, giám mục phải là “con người mới”, có nghĩa ông phải là “người quản lý của Thiên Chúa”, phải là người “không ngạo mạn, không nóng tính, không hiếu chiến”, mà ngược lại, phải là người “công chính và biết tự chủ” (Tt 1,7-8). Các cụ ông được khuyên nhủ cách riêng là hãy “sống tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, có lòng tin, lòng mến, và lòng kiên trì lành mạnh” (Tt 2,2).
Cách xử sự như thế là điều thiết yếu trong việc xây dựng một nếp sống Kitô hữu qui chiếu về tình yêu. Lối sống ấy sẽ không thể có được nếu không loại trừ những thái độ đê hèn, công kích, bất công và không trung thực. Loại trừ tính giận dữ và tìm kiếm cách giải quyết các tranh chấp là bằng chứng về sự can đảm chịu đựng giữa người này với người kia. Lòng yêu mến đối với Thiên Chúa và người khác sẽ giúp cho mỗi người vượt qua những thử thách không thể tránh khỏi của cuộc sống thường ngày cũng như những thử thách gắn liền với ơn gọi Kitô hữu.
Một lần nữa, đó chính là bước theo chân Đức Kitô, như Thánh Tông Đồ gợi lên cho ông Timôthê: “nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm 2,12). Lời khuyên tiếp theo phát xuất trực tiếp từ tâm hồn của thánh Phaolô: “Hãy tránh xa các đam mê tuổi trẻ”, bao gồm, dù rằng không nói ra, sự nóng giận; hãy ‘theo đuổi sự công chính, lòng tin, lòng mến, và sự bình an, cùng với những ai kêu cầu Chúa với lòng trong sạch. Còn những tranh luận điên dại và ngu dốt, anh hãy loại xa, vì biết rằng những thứ ấy sinh ra xung đột. Thế mà người tôi tớ Chúa thì không được xung đột, nhưng phải dịu dàng với mọi người, có khả năng giảng dạy, biết chịu đựng gian khổ. Người ấy phải lấy lòng hiền hoà mà giáo dục những kẻ chống đối, may ra Thiên Chúa ban cho ơn hối cải để nhận biết sự thật” (2Tm 2,22-25). Thánh Phaolô nói rõ rằng chỉ trong đường lối ấy, con người mới có thể có tương giao thật sự với Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện: “Tôi muốn rằng đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay thánh thiện giơ lên, tâm hồn không giận hờn, không xung khắc” (1Tm 2,8).
Lá thư gửi tín hữu Do Thái (Hipri) được viết cho những người gốc Do Thái, trong đó có nhiều người là các tư tế của luật cũ. Đức tin của họ đang bị lung lay, vì thế cam kết của họ cần phải được củng cố. Vì thế, tác giả mời gọi họ nhớ lại nhiệt tình thưở ban đầu khi mới gia nhập Kitô giáo. Trên hết, thánh nhân nhắc nhớ họ về lòng kiên trì họ đã có vào thưở ấy: “xin anh em nhớ lại những ngày đầu, lúc vừa được ơn chiếu sáng, anh em đã phải đối phó với bao nỗi khổ đau dồn dập. Khi thì anh em bị lăng nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội, và đã vui mừng chấp nhận bị tước đoạt của cải, bởi biết rằng mình có những của vừa quý giá hơn và bền vững hơn. Vậy anh em đừng đánh mất lòng tin tưởng mạnh dạn của anh em; lòng tin tưởng đó sẽ mang lại một phần thưởng lớn lao”. Rồi thánh nhân kết luận: “anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành Thánh Ý Thiên Chúa, anh em được hưởng điều đã hứa” (Dt 10,32-36).
Thánh nhân cảnh báo họ về sự kém lòng tin và “thái độ uể oải”, đồng thời khuyến khích họ “noi gương những người nhờ đức tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các lời hứa”. Có bước khởi đầu tốt đẹp chưa được kể là đã đủ, điều cần thiết là tiến tới trên con đường tốt lành, chống lại mọi cám dỗ muốn sống ngược lại. Tác giả nhắc đến mẫu gương của ông Abraham, người đã nhận được lời hứa vì đã kiên nhẫn đợi chờ” (Dt 6,12. 15). “Mặc dù không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin” (Rm 4,18; X. 4,2-3; Dt 11,8,17; Gl 3,6,9; Gc 2,21). Ông hoàn toàn tin tưởng lời Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông một dòng dõi (xc. St 13,16; 15,5-6; 17,4-7) mặc dù ông đã già (xc. St 12,4; 16,16; 17,1,24; 18,11), và bà Sara vợ ông cũng lớn tuổi (xc. St 21,2; 17,17; Dt 11,11; Rm 4,19) và hiếm muộn (xc. St 16,2; 18,11).
Kiên trì là chờ đợi ngày mà chương trình của Thiên Chúa được tỏ hiện. Thái độ kiên trì chờ đợi như thế đã hoạt động trong đời sống các vị tổ phụ, nơi Ông Abel và những nhân vật trong suốt lịch sử Israen cho tới sau này (xc. Dt 11,2-38). Thật vậy, ông Môsê, dù phải chống lại những người đầy thế lực như Pharaô, “vẫn luôn vững vàng, không nao núng, vì như thể xem thấy Đấng vô hình” (Thiên Chúa) (Dt 11,27). Do đó, “phần chúng ta được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua đang ở phía trước chúng ta, mắt chăm chú nhìn vào Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn đức tin. Vì niềm vui đang chờ mình ở phía trước, chính Người đã chịu khổ hình thập giá” (Dt 12,1-2).
Để an ủi, thánh nhân trấn an họ: “Thiên Chúa không bất công mà quên việc anh em làm và lòng yêu mến anh em đã tỏ ra đối với danh Người, vì anh em đã phục vụ và còn đang phục vụ các thánh” (Dt 6,10).
Kiên trì là một nhân đức đặc biệt trong đời sống Kitô hữu, bởi vì nó nâng đỡ những ai đi trên hành trình gian khổ, dù mục tiêu (đích đến) vẫn rõ ràng, nhưng không thể thấy trước được những khó khăn. Tin là tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, như ông Abraham đã làm, khi ông vâng nghe tiếng gọi mà “ra đi dù không biết mình đi đâu” (Dt,11,8).
Ông đã lìa bỏ mảnh đất của tổ tiên (Xc. St 12,1-4), và chỉ mang theo mình “lời hứa sẽ được thừa hưởng thế gian làm gia nghiệp…, hoàn toàn xác tín rằng điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện” (Rm 4,13,21).
Lòng tin của tổ phụ Abraham đã được thử nghiệm khi Thiên Chúa yêu cầu ông sát tế người con duy nhất của ông, là Isaac (Xc. St 22,1-19), đứa con của lời hứa (Xc. Rm 9,7-9). Ông Abraham đã vâng nghe vì “ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết chỗi dậy” (Dt 11,19; X. Rm 4,17). Nhờ vậy, trước mặt Thiên Chúa, ông là cha của chúng ta trong đức tin, cha của nhiều dân tộc (Rm 4,16-18), và “được gọi là bạn hữu của Thiên Chúa (Gc 2,23).
Theo triết gia Kierkegaard, tổ phụ Abraham trở thành vĩ đại “vì biết đợi chờ”, hay nói cách khác chính là biết kiên nhẫn. Thực vậy, có người trở thành vĩ đại vì đang trông chờ điều có thể; người khác trở thành vĩ đại vì biết trông chờ điều vĩnh cửu; nhưng người vĩ đại nhất là người đã trông chờ điều không thể[1]. Tổ phụ Abraham “vì đã tin vào điều vô lý” và vì thế đã trở thành người vĩ đại nhờ sức mạnh của lòng tin, mà sức mạnh của ông chính là sự bất lực; ông vĩ đại vì sự khôn ngoan, mà điều thâm sâu của sự khôn ngoan ấy lại là sự dốt nát; ông vĩ đại bởi niềm hy vọng của mình mà cách thức của niềm hy vọng ấy thì khác thường[2].
“Đang khi dõi bước tổ phụ chúng ta là ông Abraham trên đường đức tin” (Rm 4,12), Thánh Tông Đồ dân ngọai, từ lúc trở lại theo Chúa cho đến lúc bị cầm tù và trảm quyết vì Tin Mừng, vẫn luôn trung tín với sứ mạng của mình, như một người lính trung thành với lệnh truyền đã lãnh nhận (Xc. 2Tm 2,4). Thánh nhân đã đón nhận tất cả những đau khổ trong sứ mệnh với một lòng kiên nhẫn đầy anh hùng, bởi vì, thánh nhân đã được thúc đẩy bởi một ước nguyện duy nhất là nhằm cứu độ chính các anh em của mình: “cam chịu mọi sự (hyponéno), để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn” (2Tm 2,10): đó là vinh dự của thánh nhân, đồng thời cũng là chương trình sống ông để lại cho tất cả những ai có lòng thiện chí, nhất là cho mọi người tin vào Đức Kitô Giêsu.
[1] S. Kierkegaard, Fear and Trembling, chương I.
[2] S. Kierkegaard, nt
LM Giuse Nguyễn Cao Luật, OP |
|