|
Tông đồ thứ 12...thế chỗ cho JUDAS ISCARIOT là MATTHIAS .....V giải thik như sau nha :
Sau khi Chúa Giê-xu về trời, các tông đồ họp nhau lại để chọn sứ đồ thứ 12 thế chỗ của Judas Iscariot theo cách bắt thăm, cách mà người Do Thái thường dùng để xem ai là người được chọn theo ý của Thiên Chúa. Thăm trúng vào Matthias, người này trở nên tông đồ thứ mười hai (Công vụ 1. 23-26).....
về sau, khi các tông đồ lần lượt qua đời, không ai được tuyển chọn để thay thế các vị này............... nhưng các vị này xuất hiện là vào giai đoạn A.D ......... nghĩa là sau khi Chúa dc sinh ra ấy ........ ko liên quan gì đến giai đoạn khai hóa .............. ...... 13 người sau đó là học trò của Jesus chứ ko phải thiên thần đâu ..... những người này thuộc về giai đoạn A.D ........... ko xuất hiện B.C .......... cẩn thận coi chừng nhầm ...............
Nói là 12 hay 13 cũng đều đúng cả vì ....V giải thik thế này :
- Simon được Chúa Giê-xu gọi là Peter – trong tiếng Việt là Phê-rô hoặc Phi-e-rơ – (Hi văn petros, petra; Aram kēf; Anh văn rock) nghĩa là đá, còn được gọi là Simon con Jonah hay Simon con Jochana (tiếng Aram), Phao-lô gọi ông là Cephas (tiếng Aram), cũng gọi là Simon Peter. Ông là một ngư phủ đến từ thành Bethsaida xứ Galilee (Phúc âm Giăng 1. 44; 12. 21).
- Andrew, em của Peter, ngư phủ thành Bethsaida và là một môn đệ của John the Baptist.
- James "Lớn" (trong tiếng Việt là Giacôbê hoặc Gia-cơ).
- John (Gioan hay Giăng), con của Zebedee, được Chúa Giê-xu gọi là Boanerges (theo tiếng Aram nghĩa là "Con trai của sấm sét" – Mark 3. 17).
- Philip người thành Bethsaida xứ Galilee (John 1. 44, 12. 21).
- Bartholomew, “con trai của Talemai”, thường được gọi là Nathanael.
- Thomas, cũng gọi là Thomas Didymus, tiếng Aram T’oma’, “sinh đôi”, tiếng Hi Lạp Didymous, cũng có nghĩa là “sinh đôi”
- James "Nhỏ"
- Matthew ,người thâu thuế, đôi khi được cho là Levi, con trai của Alphaeus.
- Simon người Canaan.
- Judas Iscariot "kẻ bội phản"; được cho là người muốn phục hồi quốc gia Do Thái; sau khi Judas Iscariot tự vẫn, Matthias được chọn vào chỗ của Judas Iscariot trong các tông đồ.
- Thaddaeus, trong Phúc âm Luca gọi là Judas, con của James.
Còn nói là 13 vì :
Trong các trước tác của mình, Saul, về sau gọi là Phao-lô, dù không ở trong số Mười hai Tông đồ được chọn lúc ban đầu, vẫn xem mình là một sứ đồ, ("Phao-lô, tôi tớ của Chúa Giê-xu Cơ Đốc, được gọi làm sứ đồ, biệt riêng ra đặng giảng Phúc âm của Thiên Chúa" Rôma 1. 1 và các thư tín hữu khác), công bố rằng ông được sai phái bởi chính Chúa Giê-xu sau khi ngài phục sinh vào lúc ông gặp Ngài khi ông đang trên đường đến thành Damascus; Phao-lô cũng thường nhận mình là sứ đồ cho các dân tộc không phải Do Thái (Rôma 11. 13, Galatians 2. 8). Ông cũng thường gọi đồng lao của ông là sứ đồ (Barnabas, Silas, Apollos, Andronicus và Junia), cũng gọi một số người chống đối là "siêu-sứ đồ" (2 Corinthians 11. 5 và 12. 11). "Theo quan điểm Cơ Đốc, điều này là rõ ràng, bất kỳ ai nhận lãnh sứ mạng từ Thiên Chúa, hoặc từ Chúa Cơ Đốc, để phục vụ người khác có thể được gọi là Sứ đồ". Như thế, ý nghĩa của chức vụ tông đồ không nên bị hạn chế trong con số mười hai lúc ban đầu. Không giống mười hai sứ đồ kia, Phao-lô khẳng định thẩm quyền của mình từ việc nhận lãnh Phúc âm qua sự mặc khải của Chúa Giê-xu (Gal 1. 12; Công vụ 9. 3-19; 26-27, 22. 6-21, 26. 12-23) sau khi Chúa Giê-xu chết trên thập tự giá và sống lại, ông thường phải biện minh cho thẩm quyền của mình, và công bố rằng ông đã gặp gỡ Chúa Giê-xu và được Ngài xức dầu khi ông đang trên đường đến thành Damascus; các tông đồ lãnh đạo hội thánh tiên khởi - James, Peter và John – công nhận chức vụ sứ đồ của Phao-lô với sứ mạng rao giảng Phúc âm cho dân ngoại, có thẩm quyền như Peter trong chức vụ sứ đồ cho người Do Thái (Gal. 2. 7-9). Đôi khi Phao-lô được xem như là người thế chỗ của Matthias để được kể là trong số "Mười hai Sứ đồ".
Hoàng đế La MãConstantinus I đôi khi cũng được gọi là Sứ đồ thứ mười ba, chẳng hạn như Giáo hội Chính thống Mỹ: "Ông được gọi là 'vĩ đại' là vì ông là người nhiệt tâm tranh đấu cho sự thuần khiết của tinh thần chính thống. Trong bài Ca ngợi thứ sáu thuộc bộ kinh dành cho Lễ thánh, ông được gọi là 'Sứ đồ thứ mười ba'. Ông có tên trong danh sách các tông đồ và bình đẳng với họ."
|
|