3. Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CHỨNG NGHIỆM
Xem quả biết cây là một cách trắc nghiệm có giá trị đối với mọi công việc của Thánh Thần; chúng ta vui mừng khi thấy rất nhiều biểu hiện của Thánh Thần đáp ứng được tiêu chuẩn ấy.
Nếu tôi đã nói phong trào Canh Tân là sự biểu hiện ưu việt của Thánh Thần vào thời buổi hiện tại thì không có nghĩa đó là một sự biểu hiện độc hữu, thay thế mọi biểu hiện khác. Xin đừng hiểu sai tư tưởng của tôi. Tuy nhiên, tôi chắc chắn tin rằng chúng ta đang đứng trước một ân sủng đặc biệt dành cho Giáo Hội, nếu chúng ta biết đón nhận ơn ấy, hướng dẫn từ bên trong cách hoạt động của nó, bảo vệ nó khỏi những giả trá mà Thần Dữ không ngừng tạo nên, và để ơn ấy thấm nhập vào chính lối sống – cá nhân cũng như tập thể – của chúng ta.
Người Kitô hữu «bình thường»
Mọi phong trào của Thánh Thần đều mời gọi chúng ta tự vấn bản thân, đồng thời tự vấn về việc đáp ứng của chúng ta đối với ân sủng và về chân tính Kitô hữu của mình.
Trong chứng nghiệm tôi đang phân tích, điều làm tôi chấn động là nó buộc tôi phải thay đổi cách nhìn để đọc lại các thư thánh Phaolô và sách Công Vụ Tông Đồ mà tôi tưởng mình đã biết rồi. Khi đột nhiên thấy những biểu hiện của Thánh Thần dấy lên tương tự như những biểu hiện nơi Tân Ước, tôi liền tự đặt cho mình câu hỏi: những Kitô hữu thời Giáo Hội nguyên thủy có phải là những Kitô hữu thuộc loại đặc biệt, phi thường mà hiện nay không còn nữa, hay chính chúng ta là những Kitô hữu có đức tin yếu kém «dưới mức bình thường»? Tôi cảm thấy buộc phải tự vấn về những chuẩn mực của đức tin Kitô giáo và sự gắn bó của tôi với Đức Giêsu. Thánh Phaolô quả quyết: «Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi» (Gl 2,20), tôi có thật sự tin điều ngài nói không? và tôi có tin rằng điều ngài nói ấy có thể áp dụng cho mọi Kitô hữu là những người phải dám tin rằng Đức Kitô mong muốn tiếp tục thực hiện bởi họ và qua họ điều mà chính Ngài đã thực hiện khi còn ở trần gian không? Và thậm chí họ còn làm được cả những việc lớn lao hơn chính Ngài đã làm, như Ngài đã hứa rõ ràng không ( xem Ga 14,12)?
Tự vấn như thế buộc chúng ta phải nhìn một cách mới mẻ về nguồn nguyên thủy nhất, nền tảng nhất nơi Kitô giáo: đó là gắn bó với sự sống của Đức Kitô trong Thánh Thần. Từ đó xét xem các hệ quả vô hình ...và hữu hình từ sự gắn bó ấy. Tôi biết rằng, cách tuyệt vời nhất để thử nghiệm niềm tin Kitô giáo là dựa vào đức ái, nhưng điều ấy không loại trừ những dấu hiệu khác về sự hiện diện của Đức Kitô, những dấu hiệu mà chính Ngài đã cho chúng ta thấy rõ ràng, chúng được thể hiện ngay hôm sau ngày Thánh Thần Hiện Xuống (x. Mc 16,17-18). Khi thấy tái hiện một số hình thức của Kitô giáo thời nguyên thủy, tôi cảm thấy tôi được mời gọi nhìn lại chính mình như nhìn vào trong gương. Và đo lường sức mạnh và sự sâu rộng của đức tin Kitô hữu nơi tôi trong thế kỷ 20 này, bằng cách so sánh lối sống đức tin ấy với đức tin của người Kitô hữu ở thế kỷ thứ nhất.
Sự thánh thiện «thông thường»
Điều làm tôi ngạc nhiên nữa là bỗng dưng tôi thấy Thánh Thần biểu hiện tràn đầy nơi các Kitô hữu thuộc đủ mọi thành phần. Những sinh viên ở Pittsburg, ở Ann Arbor và những nơi khác là người Kitô hữu bình thường. Họ chẳng phải là những vị ẩn tu hay những chuyên gia về sự thánh thiện cao vời: họ là những Kitô hữu như mọi người. Họ làm tôi nhớ lại lời Thầy chí Thánh khi Ngài tạ ơn Cha Ngài vì «đã giấu kín không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn» (Lc 10,21).
Đây là sự cởi mở đón nhận Thánh Thần và các ân huệ của Ngài, không phải nơi những Kitô hữu tuyên hứa vươn lên đỉnh thánh thiện, mà nơi những Kitô hữu chỉ muốn sống đức tin của mình ở nơi mình đang sống. Trước kia ai dám bảo rằng những ơn như ơn tiên tri, ơn giải thích, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ có thể được ban cho bất cứ Kitô hữu nào sống đức tin của mình? Chúng ta thường coi những ơn này như những ơn mà chỉ các thánh hoặc các tín hữu... sắp được phong thánh mới có được. Điều này đáng ta lưu tâm và suy nghĩ. Chúng ta nên xem lại giáo huấn của Giáo Hội về đề tài này và sẽ hiểu rất nhiều điều hay. Tôi xúc động khi thấy Công Đồng Vatican II đã dành chương V trong Hiến chế Giáo Hội (Lumen Gentium) để nhắc lại một cách quả quyết ơn gọi nên thánh của mọi Kitô hữu. Và ngạc nhiên khi thấy Thánh Thần như đang hoạt động giữa chúng ta theo chieu hướng này trên một bình diện rộng lớn. Chúng ta còn nhớ rằng những khảo luận tu đức của chúng ta ngày xưa chỉ lo phẩm trật hóa sự thánh thiện dựa trên mức độ hiểu biết về «các tình trạng hoàn thiện». Trong kim tự tháp ấy, giáo dân bị xếp vào phần thấp nhất, còn các tu sĩ chiêm niệm thì ở chóp đỉnh. Nhà giáo luật thì xếp các kinh sĩ của La-tran lên hàng đầu. Còn Công Đồng Vaticanô II thì hết sức nhấn mạnh rằng sự thánh thiện là ơn gọi chung của mọi Kitô hữu.
Việc dân chủ hóa sự thánh thiện như thế đã chẳng lôi kéo người ta chú ý nhiều như những cải cách «dân chủ» khác. Tuy nhiên tiếng gọi của Công Đồng vẫn còn đó, và tôi hết sức vui mừng về những đáp trả mà Thánh Thần thúc giục thực hiện, theo sự phong phú của các ơn gọi và dưới những khía cạnh đa dạng nhất.
Những biểu hiện mà Thánh Thần hứa ban
Một khi đã chấp nhận tin rằng Đức Kitô đang sống và hoạt động nơi mỗi Kitô hữu, thì tự nhiên chúng ta cũng tin rằng Đức Kitô vẫn tiếp tục tự biểu hiện giữa chúng ta. Đức Giêsu nói với những kẻ chống báng Ngài: «Nếu các ông không tin vào tôi thì ít ra hãy tin vào những việc tôi làm» (Ga 10,38).
Những việc Ngài làm chính là những dấu chỉ và những phép lạ như chữa lành bệnh nhân, chiến thắng quyền lực sự ác, nói tiên tri, giảng giải Thánh Kinh, những lời dạy mà chỉ có những người có uy quyền mới nói được, hay những lời mà chưa từng có ai nói được. Tất cả những gì biểu lộ quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu thì người ta cũng thường thấy nơi các môn đệ Ngài. Chẳng hề có sự gián đoạn giữa người Thầy là Đấng chữa lành kẻ bại liệt với Phêrô và Gio-an là những người nói với kẻ bại liệt nơi Cửa Đẹp: «Nhân danh đức Giêsu Kitô người Na-da-rét, anh hãy bước đi!» (Cv 3,6).
Tất cả đều bởi cùng một Chúa Kitô, cùng một Thánh Thần.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi công cuộc Canh Tân của Thánh Thần dấy lên những biểu hiện đoàn sủng. Sự khác biệt giữa đức tin của chúng ta và của những Kitô hữu đầu tiên chính là mức độ cởi mở và đón nhận kho tàng ơn sủng của Thánh Thần. Và trong sự so sánh nầy chúng ta ở phần yếu kém hơn.
Điều chúng ta còn thiếu chính là nhận thức chính xác về chân tính Kitô hữu của chúng ta: Chúng ta không dám tin, bằng một đức tin đầy hy vọng, rằng tất cả mọi ân huệ phong phú của Thánh Thần vẫn luôn luôn sẵn sàng phục vụ Giáo Hội Chúa. Chúng ta chưa nhấn mạnh cho đủ rằng chúng ta rất giầu có vì có toàn bộ kho tàng của Thiên Chúa. Trong đức tin, chúng ta phải khiêm tốn nói lên điều ấy và đón nhận tài sản ấy với lòng trông cậy. Người Kitô hữu phải biết mình là ai: họ thực sự chính là con của Thiên Chúa, là người thừa tự Nước Trời, nhưng trong thực tế họ tỏ ra không biết điều ấy. Họ có được những gia tài thiêng liêng, nhưng đang bị chôn vùi vì không biết chúng hiện hữu. Vì không tin đủ nên họ không nhận ra kho tàng ấy.
Vì trong nhiều trường hợp tôi thấy có dấu hiệu chứng tỏ những biểu hiện của Thánh Thần là chân thực, nên tôi phải đọc lại các bản văn Thánh Kinh bằng một đôi mắt khác. Các bản văn ấy nói về các đoàn sủng của Thánh Thần như một cái gì hết sức bình thường trong các cộng đoàn nguyên thủy. Tôi biết sách Công Vụ Tông Đồ không phải là một tài liệu khảo cổ học, nên tại Công Đồng, tôi đã bênh vực đặc tính linh hoạt của các đoàn sủng. Nhưng bảo vệ một luận đề mà mình tin chắc chắn là đúng là một chuyện, còn có được những sự kiện để chứng minh luận đề ấy khi bị chất vấn lại là chuyện khác. Việc nêu lên thắc mắc trong sự kiện nầy là phận vụ của mỗi một chúng ta. Riêng tôi, điều làm tôi ngạc nhiên nơi những chứng nghiệm đang xảy ra không phải là sự mới mẻ của chúng mà là sự tái xuất hiện truyền thống đã có ngay từ nguyên thủy, và việc tái khám phá ra điểm xuất phát của chúng ta.
Việc canh tân phụng vụ đưa chúng ta trở lại điểm xuất phát là phòng Tiệc Ly ở Giêrusalem vào chiều thứ năm Tuần Thánh.
Phong Trào Canh Tân Đoàn Sủng mời gọi chúng ta chiêm ngắm chính phòng Hội ( phòng tiệc ly) ấy vào buổi sáng ngày Thánh Thần Hiện Xuống. Hiểu rõ hơn các nguồn gốc của mình là một ân sủng, cho dẫu chúng ta cho rằng mình vốn đã biết rồi. Và ý thức sâu xa hơn chân tính Kitô hữu của chúng ta cũng là một ân sủng.


4. MỘT LUỒNG ÂN SỦNG ĐANG THỔI ĐẾN
Để hiểu được ý nghĩa của Phong Trào Canh Tân Đoàn Sủng và tầm quan trọng thật sự của nó, ta không nên sử dụng những phạm trù có sẵn, và nhất là không nên xem đây là một phong trào đứng cạnh những phong trào khác, hoặc tệ hơn nữa, cạnh tranh với những phong trào ấy. Thực sự không phải như thế, mà đây chính là một tác động của Thánh Thần trên tất cả mọi Kitô hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân. Đây là một luồng ân sủng đang thổi đến, làm cho chiều kích đoàn sủng vốn tiềm tàng trong Giáo Hội được ý thức ở mức cao nhất. Vì theo định nghĩa, mọi Kitô hữu đều có đoàn sủng; điều khiến họ khác với những người khác chính là ý thức sống động – ít nhiều tùy người – về thực tại nền tảng mà nhất thiết mọi Kitô hữu đều có.
Như thế, đây không phải là một phong trào đặc thù được hiểu là có cơ cấu tổ chức, và các thành viên được kết nạp phải có một bổn phận nào đó được quy định rõ rệt. Để tham gia trào lưu này, người ta không bị đòi hỏi phải gia nhập vào một nhóm cầu nguyện có tổ chức. Đức Kitô có nói: «Quả thật, ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp lại vì danh ta, thì ở đó có Ta» (Mt 18,20). Dựa trên con số khiêm tốn này thì lời cầu nguyện nào phát sinh giữa một vài Kitô hữu có thể được gọi là cầu nguyện cộng đồng. Thánh Thần thổi cách nào và thổi nơi nào tùy ý Ngài. Ngài không cần phải có khuôn khổ đặc biệt nào mới xâm nhập được vào những môi trường đa dạng nhất : giáo dân đủ mọi tầng lớp, các cộng đoàn và dòng tu đủ loại (chẳng cần thay đổi linh đạo của mình), đều cởi mở đón nhận trào lưu này; tôi dám liều tiên đoán rằng tương lai nó sẽ tràn ngập một cách kín đáo, êm nhẹ vào các tòa giám mục..., các hội đồng giám mục..., các Thượng Hội Đồng tại Rô-ma.
Các Kitô hữu tha thiết với trào lưu nầy thích gặp nhau để cùng nhau chia sẻ niềm tin, hy vọng và tình yêu huynh đệ được canh tân của mình, và để hiệp thông trong bầu khí cầu nguyện tự phát mà họ cảm thấy thoải mái - vì không dè dặt và ngại ngùng. Sự kiện đó không có nghĩa là tạo ra một Giáo Hội trong Giáo Hội; nhưng đây chỉ là những Kitô hữu cảm thấy hạnh phúc vì được cùng là Kitô hữu với nhau trước mặt Đức Kitô, và sẵn sàng phục vụ tha nhân ở những nơi mà Chúa Quan Phòng xếp đặt cho họ.
Một trong những vị hữu trách ở Ann Arbor là Stephen Clark, muốn đánh tan mọi hiểu lầm, đã nhấn mạnh: «Chúng tôi chẳng cố tìm điều điều gì đặc biệt cả; chúng tôi chỉ thử sống Kitô giáo trong quyền năng của Thánh Thần... Chính Thánh Thần mới quan trọng, chứ không phải chúng tôi... Chúng tôi không mong người ta đồng hóa phong trào Canh Tân này với công cuộc canh tân Giáo Hội. Nhiều điều khác đang xảy ra do Thiên Chúa tác động. Công việc của Thánh Thần mới là nền tảng. Tuy nhiên việc tái khám phá quyền năng này của Thánh Thần là một phần thực sự thiết yếu cho bất cứ cuộc đổi mới nào của Giáo Hội. Điều ấy phải nhất thiết tác động lên nhiều lãnh vực khác nhau như phụng tự, phụng vụ, cuộc sống cộng đoàn, công cuộc phục vụ xã hội và tông đồ».34
Trong bài tường trình tại đại hội quốc tế ở South Bend, với đề tựa là The Holy Spirit is no longer a ghost (Thánh Thần không còn là một bóng ma), cha dòng Tên John C. Haughey có nhận xét chính xác và nhấn mạnh rằng các vị hữu trách đã không nói đến «phong trào» đoàn sủng mà nói về Đức Kitô. Ngài còn thêm: «Người ta càng tham gia vào trào lưu này thì người ta càng ít tập trung vào phong trào này xét như là một tổ chức, nhưng lại càng quan tâm đến những tác động của Thánh Thần nơi chính mình và nơi cộng đoàn tín hữu mà người ta tham gia».35
«Những người lãnh đạo» tự phát của «phong trào» này - tôi buộc phải để trong ngoặc kép những từ không thích đáng - thừa nhận là lý tưởng của phong trào là mong được biến mất đi. Một ký giả người Mỹ đã đặt tựa đề cho vấn đề nầy: «A movement that wishes to die» (Một phong trào cầu mong được chết). Thật là chính xác: tham vọng của họ là tự xoá mình càng sớm càng tốt, một phần nào tương tự, nhưng ở cấp độ khác, như các phong trào Thánh Kinh và phụng vụ cũng đã biến đi; và chúng ta hy vọng rằng mai mốt phong trào đại kết cũng sẽ chấm dứt, ngày mà toàn thể Giáo Hội đều chấp nhận sự thôi thúc hiệp nhất của Thánh Thần. Người ta mong ước sẽ có ngày trào lưu này biến mất khi nó đã đạt được mục đích, tựa như nước trong những dòng sông phải mất đi tên của mình khi chảy vào biển cả.
Vì sợ lạm dụng hay sợ việc định hướng sai lạc luôn luôn có thể xảy ra, có kẻ như bị cám dỗ bác bỏ những gì - mà theo lương tri của tôi - có mang dấu ấn của Thiên Chúa. Tôi mong có thể lặp lại với người ấy lời của Ga-ma-li-en nói với những Kitô hữu đang được biến đổi bởi một biến cố Hiện Xuống nào đó: «Vậy giờ đây, tôi xin nói với quý vị: hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá hủy, còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá hủy được, không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa» (Cv 5,38-39).