|
|
Chương VII THÁNH THẦN
VÀ KITÔ HỮU ĐÍCH THỰC
Chính Thiên Chúa đã đóng ấn tín trên chúng ta, và đổ Thánh Thần vào lòng chúng ta làm bảo chứng. 2 CL 1,22
1. THẾ NÀO LÀ MỘT KITÔ HỮU ĐÍCH THỰC?
Không một lối canh tân nào trong Giáo Hội có thể quan niệm được, bao lâu người Kitô hữu không tìm lại được chân tính của mình. Người ta nói nhiều đến chân tính này, miệt mài nghiên cứu bản chất của nó, nhưng lắm lúc lại quên rằng chân tính ấy khởi thủy và hoàn thành trong Thiên Chúa. Không gì thiết yếu hơn là việc phải tìm biết xem một Kitô hữu “theo chuẩn mực”(= một người chịu phép rửa đích thực) là ai. Khi dùng từ «chuẩn mực», chúng tôi muốn nói đến «chuẩn mực» khởi từ Thiên Chúa chứ không xét theo cách đáp ứng của chúng ta đối với ân sủng. Thánh Phaolô nói: «Chính Thiên Chúa đã khắc ấn tín của Ngài trên chúng ta» (2 Cl 1,22). Chúng ta phải khởi đi từ chỗ đó.
Một cộng đoàn Kitô hữu lý tưởng chẳng bao giờ có cả, ngay cả vào những thời tốt đẹp nhất trong lịch sử Giáo Hội. Trước khi phục sinh, chính Đức Giêsu đánh giá các Tông Đồ là tầm thường. Sau khi Ngài Phục Sinh, nếu họ đã tỏ ra can đảm tuyệt vời – rất nhiều vị đã tử đạo –, thì họ vẫn còn ít nhiều hẹp hòi, thành kiến. Những xung đột giữa Phêrô và Phaolô, Mác-cô và Ba-na-bê, những tranh chấp trong các cộng đoàn mà thánh Phaolô có đề cập đến trong những lá thư của ngài, nhất là nơi các tín hữu Cô-rin-tô, chứng tỏ rằng chẳng bao giờ có một cộng đoàn Kitô giáo nào tuyệt vời cả. Vì thế, đừng mơ tưởng tới một thiên đàng nào đó bị mất cần phải phục hồi, nhưng cũng đừng vì thế mà kết luận rằng quan niệm về người Kitô hữu đích thực chỉ là chuyện mơ hồ và bất định. Ta có thể nhận ra chân tính của người Kitô hữu qua những dấu chỉ không thể lầm lẫn được. Cho dẫu một cây có những trái bị sâu ăn, có những cành bị bão làm gãy, tôi vẫn có thể nhận ra phẩm chất của cây, chỉ cần cây đó sinh ra được một trái chín và thơm ngon. Đức Giêsu có nói đến trường hợp hạt giống tốt và cỏ lùng cùng mọc lên trong một cánh đồng. Những yếu đuối con người đã không ngăn cản Giáo Hội nguyên thủy cống hiến cho chúng ta hình ảnh một Kitô giáo đích thực, gần với nguồn gốc của nó.
Để xác định tính đặc thù của Kitô giáo trước hết đừng định nghĩa người Kitô hữu dựa vào những tiêu chuẩn và đòi hỏi của xã hội bên ngoài, nơi họ đang sống, mà phải dựa trên những nguồn căn của chính họ và sứ mạng mà Thiên Chúa ủy thác cho họ. Vậy chúng ta hãy đọc lại bài tường thuật biến cố Hiện Xuống trong Công vụ Tông Đồ, chương hai.
Chúng ta hãy chăm chú nhìn vào cảnh trí được mô tả và hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa nhân chứng thứ nhất của Đức Kitô là Phêrô, và đám đông đầu tiên lắng nghe sứ điệp mở màn của ông.
Căn Nhà Hội (=phòng tiệc ly) vừa bị rung chuyển bởi một cơn gió mạnh dữ dội; Thánh Thần ngự xuống dưới hình các lưỡi lửa trên một trăm hai mươi môn đệ. Phêrô, cùng với mười một môn đệ kia – chi tiết này đầy ý nghĩa – tiến ra nói với đám đông, cho họ biết rằng ông và các bạn ông chẳng hề say xỉn; và Ngài nói cho họ hay lời tiên tri của Gio-en đang được ứng nghiệm trước mắt mọi người: «Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thánh Thần Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng…» (Cv 2,17). Đám đông xúc động và cảm kích trong lòng - chi tiết này cũng đáng lưu ý - nên lên tiếng hỏi: «Chúng tôi phải làm gì đây?» (Cv 2,37).
Bài diễn văn của Phêrô cho chúng ta bài giáo lý tiên khởi, xác định lần đầu tiên chân tính và bản sắc Kitô giáo. Đám đông hỏi: trước hết chúng tôi phải làm gì? Câu trả lời của Phêrô trực tiếp và đơn giản:
«Anh em hãy sám hối, và mọi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội và anh em sẽ nhận được ân huệ Thánh Thần» (Cv 2,38).
Hoán cải – chịu phép rửa – dấn thân theo Đức Kitô – đón nhận Thánh Thần.
Toàn bộ Kitô giáo bao gồm trong những từ này: hoán cải – phép rửa – gặp gỡ – đón nhận.
Hoán cải và phép rửa
Kitô hữu từ bản chất phải là “một người hoán cải”.
Kitô hữu vào những thời điểm đầu tiên – tức sáng hôm lễ Ngũ Tuần ( = Thánh Thần hiện xuống) – đã phải hoàn thành việc hoán cải tâm hồn, một cuộc trở lại, và phải cắt đứt nhiều mối ràng buộc. Phép rửa tội đối với người ấy có nghĩa là: chết đi «con người cũ», giải thoát, giải phóng, sống đời sống mới. Phụng vụ trong nghi thức rửa tội người lớn ngày nay vẫn còn tuyên xưng tất cả những điều đó; và cả trẻ nhỏ được rửa tội sau khi chào đời một ngày thì hôm sau cũng phải tuyên xưng từ bỏ và chọn lựa như thế. Việc này đặt ra một vấn đề mục vụ quan trọng mà chúng ta sẽ đề cập lại sau.
Gặp gỡ cá nhân
Kitô hữu là người hoán cải, thoát ra khỏi vòng vi đang giam hãm con người mình để gắn bó với Đức Giêsu Na-da-rét, Đấng đã chết và sống lại vì mình. Người Kitô hữu đã thật sự gặp gỡ Đức Giêsu, nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Sai, là người Con tuyệt vời của Chúa Cha, là Đấng được xức dầu bằng Thánh Thần. Kitô hữu đã khám phá Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, là Chúa của mọi người. Trong bất kỳ việc gia nhập đích thực nào của Kitô hữu, dưới hình thức này hay hình thức khác, người ta cũng nghe âm vang lời của văn hào Claudel đã thốt lên vào buổi chiều ngày ông hoán cải. Ông đã nhìn Đức Kitô với một đôi mắt mới và reo lên: «Nay đột nhiên Ngài là “Đấng ” thật sự đang ở đây với con»36.
Gặp gỡ cứu độ
Phải gặp gỡ Đức Giêsu trong thực tế sống động và thân thiết của Ngài. Nhưng cũng phải gặp Ngài với tư cách «Đấng Cứu Độ» nữa.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà thuật ngữ «Giêsu Đấng cứu độ» đã trở thành vấn đề. Để biết mình được cứu, thì phải thấy mình được cứu khỏi cái gì. Khỏi cái gì vậy? Đức tin cho biết Đức Giêsu đã đến cứu dân Ngài khỏi ách của Lề Luật: Thánh Phaolô công bố sự giải thoát khỏi chủ nghĩa vị luật vốn bóp nghẹt, vây hãm con người trong một hệ thống những mệnh lệnh hình thức và lễ nghi; đồng thời mong được sự tự do đích thực của con cái Thiên Chúa thay cho những hình thức nô thuộc đó.
Đức tin cũng dạy rằng Đức Giêsu đã đến cứu ta khỏi chính bản thân ta, khỏi tội lỗi, sự chết và các quyền lực của Ác Thần. Tất cả điều này trở thành vô nghĩa đối với những ai tuyên bố: con người tự mình đã đầy đủ cho mình, chẳng hề có tội lỗi, sau khi chết là thành hư không, và đối với những ai coi các quyền lực của sự Ác là chuyện hão huyền. Không thể nhìn nhận Đức Giêsu là «Đấng Cứu Độ» đúng như ý nghĩa của tên Ngài, nếu ta chẳng biết Ngài đã cứu ta khỏi những gì. Một buổi chiều nọ trên màn ảnh truyền hình, một diễn giả xưng mình là Kitô hữu đã hét to lên: «Tôi không cần được “cứu”, mà cần được “giải thoát”». Nói như thế là người ấy đã quên rằng cứu độ và giải thoát liên kết với nhau chặt chẽ. Khi cứu con người khỏi tội lỗi vốn là cội rễ mọi sự dữ cá nhân và tập thể, Đức Giêsu đã đặt nền móng cho tất cả mọi giải thoát cần thiết. Giải thoát cho kẻ bị áp bức, chiến đấu chống bạo lực và bất công là một phần của công trình cứu độ. Toàn bộ Cựu Ước đã nói lên điều này.
Gặp gỡ Đức Giêsu và nhận ra Ngài là Chúa
Ngoài ra, một Kitô hữu đích thực phải là người đã gặp gỡ thân mật với Đức Giêsu Kitô và nhận ra Ngài là “Chúa”. Chúng ta cần nhìn nhận một cách cụ thể và theo thân phận của chúng ta rằng: Đức Giêsu là chủ tể sự sống, là hiện thân của niềm hy vọng của con người. Chúng ta cần phải sống lại cảnh Đức Giêsu gặp gỡ hai môn đệ đầu tiên, họ đi theo Ngài suốt quãng đường dọc sông Giô-đan. Chúng ta nên đọc lại đoạn Tin Mừng ấy (xem Ga 1,35-39).
Đức Giêsu quay nhìn và hỏi họ: «Các anh tìm gì?» Họ đáp lại bằng cách đi thẳng đến mục tiêu: «Ngài ở đâu?» Thầy trả lời đơn sơ: «Hãy đến mà xem».
Đó là một cuộc gặp gỡ có tính cách chứng nghiệm: họ sẽ tìm được câu trả lời cho cuộc tìm kiếm của họ nơi Đức Giêsu. Câu nói họ thốt lên sau đó: «Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mê-si-a» là cả một thế giới đầy hân hoan. Đối với người Do Thái, điều ấy có nghĩa là: niềm hy vọng của dân tộc chúng ta đã được xác lập, giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và Israel đã được thực hiện. Chúng tôi đã tìm thấy Đấng mà tâm hồn chúng tôi kiếm tìm.
Điều đó cũng đúng với mỗi người Kitô hữu:
– điều khiến cho họ thành Kitô hữu là họ gặp được Đức Giêsu trong cuộc sống lữ hành của mình.
– đã khám phá được khuôn mặt của Ngài
– đã nhận ra tiếng Ngài.
– đã nghe Đức Giêsu gọi tên mình và mời gọi mình sống thân mật với Ngài.
Thông thường một sự gặp gỡ như thế xảy ra tiệm tiến, không phải là công việc làm một ngày là xong. Đức Giêsu đã để cho hai môn đệ cứ mải bước đi một lúc lâu mà không quay nhìn Ngài. Tuy nhiên Ngài đã có mặt trong chính cuộc hành trình của họ. Chuyện trước đây của họ cũng là chuyện hôm nay của chúng ta
Đón nhận
Cuối cùng Kitô hữu là người đã gặp được Đức Giêsu Kitô với tư cách là «Đấng rửa tội trong nước và Thánh Thần».
Trước hết cần lưu ý tương quan giữa Đức Kitô và Thánh Thần. Dù có phân biệt về ngôi vị nhưng mối dây liên kết giữa hai Ngôi là bất khả phân ly. Danh hiệu «Kitô» vốn có nghĩa là «Đấng được Thánh Thần xức dầu». Tất cả cuộc đời Đức Giêsu mặc khải sự hiện diện của Thánh Thần ở nơi Ngài. Sự hiện diện ấy biểu hiện ra khi Ngài chịu phép rửa trên sông Giô-đan; lúc ấy Thánh Thần xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Thánh Thần thường ẩn hiện cho chúng ta chợt thấy vào những giờ phút quan trọng của cuộc đời Ngài: Chính Thánh Thần dẫn Ngài vào sa mạc, khiến Ngài biểu lộ vui mừng khi cầu nguyện, làm Ngài chấp nhận và hoàn tất công việc Cứu Chuộc (Dt 5,9).
Và thánh Phaolô cho chúng ta biết hôm sau ngày Phục Sinh, Đức Kitô đã trở nên «Thánh Thần ban sự sống» cho chúng ta (1 Cr 15,45) và sứ mạng của Thánh Thần liên kết chặt chẽ với sứ mạng của Đức Giêsu. Chính trong, nhờ và với Thánh Thần, Đức Giêsu điều khiển Giáo Hội Ngài như lời Ngài đã hứa công khai.
Nhờ phép rửa tội, Kitô hữu đi vào trong mầu nhiệm Đức Kitô. Lúc ấy họ được hòa nhập cùng một lúc vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Ngài, và mầu nhiệm Thánh Thần tuôn tràn vào con người họ. Lãnh nhận phép rửa bằng nước, tượng trưng sự tái sinh, lập tức người ấy cũng chịu phép rửa trong Thánh Thần ban sự sống.
Phép rửa tội làm sống lại biến cố Hiện Xuống một cách mới mẻ nơi người lãnh nhận. Chúng ta bị cám dỗ đọc sách Công Vụ Tông đồ theo kiểu đọc rảo qua một cuốn sách sưu tập những sự kiện lý thú, trong đó người ta kể Thánh Thần hoạt động nơi những cộng đoàn tín hữu đầu tiên, làm đủ thứ dấu chỉ và những điều kỳ lạ, phân phát vô số ân huệ và đoàn sủng. Rồi sau đó chúng ta liệt những sự kiện ấy vào quá khứ, như vào một văn khố: Chúng ta khó mà tin rằng những biểu hiện ấy của Thánh Thần siêu vượt thời gian và không gian nên vẫn luôn luôn sống động và hiện thực. Chúng ta không nhận thức được rằng mầu nhiệm Hiện Xuống vẫn tiếp diễn, các ơn Chúa đã ban thì Ngài không bao giờ đổi ý lấy lại, theo như lời Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma (Rm 11,29). Quả thế, tư tưởng Thiên Chúa là một tiến trình liên tục nối kết nhau. Ngài không hành động bộp chộp hoặc phải làm đi làm lại. Chúng ta thấy trên bầu trời có một «nhân chứng tín trung» : Đường lối của Thiên Chúa không dự đoán được, nó đa hình đa dạng, thường không hiểu được, không chỉ đi theo một hướng nhất định. Theo qui luật hành động này của Thiên Chúa, người ta nhận ra rằng những cảnh được Thánh Kinh mô tả không phải là những câu chuyện không có phần tiếp theo, những sự kiện đa dạng không có tương lai. Qua giới hạn lịch sử đã xảy ra trong khuôn khổ địa lý vùng Pa-les-ti-na hiện vẫn còn mang dấu vết, đức tin cho chúng ta thấy mầu nhiệm hành động của Thiên Chúa vẫn luôn luôn linh động và có giá trị cho mọi thời đại tương lai.
Hoán cải, rửa tội, gặp gỡ Đức Giêsu như là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ, đón nhận Thánh Thần, tất cả những điều ấy kỳ thực làm thành một toàn thể. Toàn bộ này được truyền thống cử hành với nhiều lối nói như gia nhập Kitô giáo, giác ngộ, bước vào đời sống mới. Người ta có thể dùng mỗi từ nêu trên để chỉ toàn bộ tiến trình ấy.
2. KITÔ HỮU THỜI HIỆN ĐẠI:LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TẾ
Chúng ta đã dành nhiều thì giờ để tìm hiểu người Kitô hữu nguyên thủy dẫu vẫn biết rằng lý tưởng không bao giờ được thực hiện trọn vẹn tại trần thế này, và Thánh Thần thì không tác động theo một khuôn cố định. Cần phải ý thức như thế mới nhận ra được chân tính của người Kitô hữu. Tuy nhiên, một cách thực tế, chúng ta cũng phải thẩm định xem các Kitô hữu mà chúng ta gặp ngày hôm nay sống Kitô giáo ở mức độ nào sau hai mươi thế kỷ phúc âm hóa.
Trong cuộc hành hương trở về nguồn, chúng ta đã tìm ra được mẫu người Kitô hữu nguyên thủy, là người đã hoán cải, đã đón nhận Đức Giêsu trong mầu nhiệm sâu xa và thân mật của Ngài, đã rộng tiếp Thánh Thần. Người ta cảm thấy thật ngỡ ngàng trước sự tương phản quá rõ giữa người Kitô hữu được Thánh Phêrô định nghĩa vào ngày hôm sau biến cố Hiện Xuống và người Kitô hữu mà chúng ta đang thấy trước mắt, tức người Kitô hữu của chúng ta hôm nay. Tương lai Giáo Hội chính là những thành viên mai đây của mình. Công cuộc canh tân cộng đoàn trong Giáo Hội trước tiên tùy thuộc vào các thành phần cấu tạo nên cộng đoàn này như những viên đá của toà nhà, tức những Kitô hữu hôm nay.
Vậy chúng ta hãy phân tích hiện trạng một cách khách quan hết sức có thể. Ngày nay, khi nói một Kitô hữu là chúng ta nói về ai và nói về điều gì?
Một phương trình cần xét lại
Trong nhiều thế kỷ được gọi là chịu ảnh hưởng Kitô giáo, cách chung người ta cho rằng Kitô hữu trước tiên phải là một người «hành đạo», nghĩa là một người có đi lễ các ngày Chúa Nhật và năng lãnh nhận các bí tích. Không có ai nghi ngờ gì cả phương trình này: ai hành đạo thì có đức tin, ai có đức tin thì hành đạo. Đức tin được xét theo dấu chỉ thấy được là việc hành đạo.
Nhưng những cuộc điều tra xã hội học và những cuộc thăm dò cho thấy một thực tế rõ ràng là phải đặt lại vấn đề về giả định ấy trong công việc mục vụ của chúng ta. Ngọn gió của trào lưu tục hóa đã lay động cây cối; những cành cây xem ra sống động sum xuê giờ đã bị gãy lìa, khắp nơi việc thực hành các hình thức lễ nghi tôn giáo đã xuống dốc, nhất là nơi giới trẻ. Chúng ta không chỉ đứng trước hiện tượng số lượng mà cả vấn đề phẩm chất nữa. Vậy trong Kitô giáo, phẩm chất và chân tính Kitô hữu khi được sống đích thực là gì?
Một cuộc thăm dò những người Công Giáo Pháp cho thấy một số sự kiện báo hiệu:
– 95 % muốn có nhà thờ, nhưng phần lớn lại chẳng hề bước chân đến.
– 88 % đòi cho con họ chịu phép rửa,
– nhưng hơn một nửa không biết Đức Giêsu.
– 2/3 không tin Đức Giêsu đã phục sinh.
Những sự kiện này cho thấy cách sống sượng một tình trạng có thực. Vị giám mục Pháp cho tôi biết những dữ kiện trên, đã tiếp tục phân tích:
«Một ngày nào đó ta sẽ quyết định rút ra những hệ quả hợp lý từ những nghiên cứu này; nếu không thì ta sẽ lại tiếp tục ban bí tích cho những kẻ không có đức tin, và tiếp tục cử hành thánh lễ hôn phối hay an táng cho những người đến tham dự mà trong lòng bực bội hay chế giễu (tôi nói đến thánh lễ, đỉnh cao của đức tin chứ không nói đến phụng vụ lời Chúa mà nếu được thực hiện tốt có thể là một phương thế truyền đạt giáo lý). “Sancta Sanctis”(điều thánh thiện phải dành cho các thánh). Các sự việc của Thiên Chúa phải dành cho những ai có đức tin. Bí tích phải dành cho kẻ nào tin và thực sự lên đường.
«Phải can đảm dẹp đi các ao tưởng. Chúng ta đã thực hiện Công Đồng Vatican II trong niềm tin rằng các Kitô hữu tự bản chất được kêu gọi làm người truyền giáo. Nhưng đáng lý phải giúp cho họ tin đã. Công cuộc canh tân mà Công Đồng Vatican II mong đợi bị trì trệ, những người sống đạo bị tan đàn, những kẻ bài bác vai trò ngôn sứ ngày càng nhiều lên, những Kitô hữu muốn được trấn an thì chủ trương quay về quá khứ... Sỡ dĩ tất cả điều ấy xảy ra là vì người ta đã ngây thơ tin rằng ai cũng đều chấp nhận và sống sứ điệp Kitô giáo nền tảng (tức lời chứng kinh nghiệm đức tin: Tôi tin vào Đức Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế). Nhưng thực ra chỉ có một số người chấp nhận và sống mà thôi».37
Nếu so sánh hình ảnh người Kitô hữu nguyên thủy với hình ảnh của rất nhiều người Kitô hữu hữu danh hơn là hữu thực ngày nay, ta sẽ thấy ngay sự tương phản đập vào mắt, và phải đặt ngay vấn đề triệt để cho mọi cuộc canh tân trong Giáo Hội. Công Đồng Vatican II là một Công Đồng mang tính cách mục vụ, nghĩa là một Công Đồng mong ước làm cho Giáo Hội thích ứng với những yêu cầu thời đại, bên trong lẫn bên ngoài. Giả thiết mà Công Đồng dùng làm khởi điểm là Giáo Hội bao gồm những Kitô hữu đích thực hay ít ra đang cố gắng trở nên như vậy. Nhưng những dữ kiện nêu trên buộc chúng ta phải xem lại giả thiết ấy. Phải đặt lại vấn đề một lần nữa: khi nói về người Kitô hữu là chúng ta nói cái gì và nói về ai?
Câu chất vấn ấy làm ta khó chịu: một cách tổng quát, Kitô hữu hôm nay có thực sự là những tín hữu có một đức tin thiết thân, dấn thân và đúng thực không?
Chúng ta có phận vụ phải xem xét lại các cấu trúc của Giáo Hội trên nhiều bình diện khác nhau, phải làm việc này, và việc này phải lâu lắm mới hoàn tất. Nhưng hôm nay, ngay cả những nền tảng đức tin cũng bị đặt vấn đề. Chúng ta vốn biết rằng Giáo Hội chỉ có ý nghĩa là nhờ Đức Kitô. Đức Kitô chỉ có ý nghĩa nếu Ngài là Con duy nhất của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa chỉ có nghĩa nếu Ngài là Thiên Chúa có ngôi vị và sống động. Than ôi, tất cả những điều ấy đều đang bị lung lay, bị đặt lại vấn đề!
Nơi nhiều người, đức tin đã bị soi mòn tận căn. Họ cần phải tái khám phá lại ngay nơi trọng tâm của sứ điệp Kitô giáo. Chúng ta đã quá chú trọng việc “cử hành bí tích”, mà không chú trọng đủ vấn đề “sống và rao truyền Tin Mừng”. Sự thiếu sót này bùng nổ ở tầm mức lục địa, khắp nơi ai cũng thấy người Kitô hữu không sống phù hợp với đức tin của họ.
Trước tình trạng khẩn cấp này, những sự tranh cãi nội bộ của chúng ta, dù thiên hữu hay thiên tả, không mang lại một cái gì sáng sủa cả. Chúng ta cần phải tìm lại những đặc tính của người Kitô hữu. Sứ mạng của chúng ta không phải là phê phán cá nhân ai, mà là can cường bảo toàn lý tưởng Kitô giáo. Chúng ta phải trình bày Tin Mừng đúng với bản chất Tin Mừng, làm cho thế gian biết Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, cùng những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi những kẻ tự nhận mang danh Ngài trước mặt thiên hạ.
Chúng ta phải mời gọi các Kitô hữu ngày càng ý thức sống động hơn về đức tin của họ, gắn bó với Thiên Chúa ngày càng khắng khít hơn. Phải giúp một số Kitô hữu chuyển từ thứ Kitô giáo ít nhiều mang tính xã hội sang thứ Kitô giáo trọn nghĩa. Thứ Kitô giáo được cha mẹ truyền lại chủ yếu do sinh ra và giáo dục cũng phải trở thành thứ Kitô giáo do chính mình chọn lựa, dựa trên quyết định của bản thân và việc nhận thức rõ ràng lý do chọn lựa như thế. Ter-tu-li-a-nô đã nói lên điều ấy: «Fiunt, non nascuntur christiani», nghĩa là: không phải mình sinh ra là Kitô hữu, mà mình trở thành Kitô hữu.
Hướng đến một kiểu mẫu Kitô hữu mới
Vậy mấu chốt của vấn đề là: có biết bao Kitô hữu hữu danh vô thực, làm thế nào để biến họ thành Kitô hữu đích thực? làm sao để Phúc Âm hóa một thế giới vốn đã là chịu ảnh hưởng Kitô giáo từ lâu? Cần phải làm sao để Kitô giáo mà người ta đã tự do chọn lựa được phát triển, trong đó người Kitô hữu phải:
– trở về với Đức Kitô với tất cả quyết định sáng suốt của mình;
– chính mình thừa nhận những bí tích đã đưa mình vào Kitô giáo là phép Rửa Tội, Thêm Sức, Thánh Thể;
– biết cởi mở trong đức tin để đón nhận Thánh Thần và các ơn huệ của Ngài, hầu đáp ứng với định mệnh siêu nhiên mà Thiên Chúa dành cho mình.
Đó là vấn đề trọng tâm của mọi công tác mục vụ và là điểm tương phản rõ rệt giữa Kitô hữu hữu danh vô thực và Kitô hữu đích thực. Chúng ta phải xem xét vấn đề này. Người ta không trách các Kitô hữu vì họ là Kitô hữu, mà vì họ không sống đúng như người Kitô hữu. Một Giáo Hội chỉ lo thực thi chuyên cần các bí tích thì chưa đủ, mà trước tiên phải biết tuyên xưng đạo của mình. Chúng ta phải công bố Đức Giêsu Kitô trong thế giới hôm nay, làm chứng cho niềm tin của chúng ta vào Ngài. Đức Giêsu từng nói: «Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời» (Mt 10,32). Chúng ta cần những Kitô hữu tin vào Đức Giêsu, Con duy nhất của Chúa Cha, và công bố đức tin của họ vào sự sống lại và vào tác động của Thánh Thần; đồng thời thực thi niềm tin này vào trong mọi chiều kích của cuộc sống họ.
Tóm lại, người ta đòi hỏi một Giáo Hội gồm những người tự nguyện; những người thể hiện mạnh mẽ sự tự do của con cái Thiên Chúa. Các bổn phận Kitô hữu không phải giống như những lệnh truyền độc đoán áp đặt từ bên ngoài, nếu không thi hành thì mắc tội trọng; mà giống như những đòi buộc từ trong thâm tâm, những mệnh lệnh phát sinh từ bản chất của đức tin.
Giáo Hội ấy, Giáo Hội của ngày mai, sẽ càng ngày càng trở thành một Giáo Hội gồm các Kitô hữu sống tâm tư lưu đày giữa xã hội chung quanh, như hình ảnh Cha Karl Rahner từng tiên đoán. Giáo Hội ấy đang ngày càng thành hình rõ rệt hơn.
Kitô hữu năm 2000
Sau Công Đồng Vatican II, khi mô tả người Kitô hữu của tương lai, của năm 2000, cha Rahner nhìn thấy trước hết họ sẽ là những Kitô hữu thâm tín, theo Chúa một cách tự nguyện; tuy họ chỉ là thiểu số trong thế giới, nhưng vững chắc trong đức tin, có tình huynh đệ với đồng đạo và với mọi người. Cha tuyên bố:
«Thời đại này sẽ có những cộng đoàn Kitô hữu, những cộng đoàn Công Giáo sống trên toàn thế giới nhưng được phân phối không đồng đều. Khắp nơi đều xuất hiện những nhóm nhỏ. Lý do là vì nhân loại phát triển nhanh hơn Kitô giáo, và vì người ta sẽ không là Kitô hữu do tập tục và truyền thống qua trung gian các định chế hay qua lịch sử, hoặc do môi trường xã hội thuần nhất hay do dư luận xã hội thúc đẩy. Nhưng người ta sẽ là Kitô hữu duy chỉ vì do hành vi đức tin bản thân của mình, và qua gương sáng của các bậc cha mẹ, sự thân mật trong gia đình và trong những nhóm nhỏ giống như một ngọn lửa thiêng lan truyền. Họ có được hành vi đức tin ấy nhờ trải qua một cuộc chiến khó khăn và liên lỉ.
«Tất cả các Kitô hữu ấy sẽ mang những tâm tư đậm nhạt của hoàn cảnh lưu đày giữa xã hội của người không tin... Họ trở thành đàn chiên nhỏ của Tin Mừng…...Họ sẽ nhận ra nhau là anh chị em, vì kỳ thực dường như bất cứ ai trong họ cũng hiến dâng trái tim và cuộc đời mình cho Đức Giêsu Kitô bằng một quyết định cá nhân và tự nguyện. Sẽ không mấy người sống theo kiểu dựa dẫm người khác, vì làm Kitô hữu thì chẳng đem lại cho họ tí lợi lộc trần thế nào... Giáo Hội sẽ tìm lại được chính mình nơi những nhóm nhỏ gồm các anh chị em cùng chia sẻ một niềm tin, một niềm hy vọng và một tình thương chân thành. Giáo Hội ấy sẽ không tự hào về mình, không xem mình cao cả hơn Giáo Hội của những thời đại trước; nhưng với tâm tình, sự vâng phục và biết ơn, họ sẽ chấp nhận thời đại của mình như một món quà mà Đức Giêsu và Thánh Thần Ngài trao tặng...».38
Dù tương lai thế nào đi nữa, Kitô hữu hôm nay phải sống niềm tin của mình với lòng can đảm và cương quyết. Hơn bao giờ hết Kitô hữu phải hứng khởi thực hành những điều Phêrô truyền cho những môn đệ đầu tiên: đó là ý thức mình có tội và hoán cải, gặp gỡ Đức Giêsu bằng cách tái khám phá khuôn mặt Ngài và Lời Ngài, chấp nhận Thánh Thần để Ngài dẫn mình «đi đến nơi mà có lẽ tự mình không thể đi đến được». Tóm lại, Kitô hữu hôm nay phải mở lòng hướng về tương lai trong một đức tin đầy hi vọng vì nó bao hàm lời hứa và quyền năng của Thiên Chúa.
|
|