Chương XII

THÁNH THẦN,
NIỀM HY VỌNG CỦA TÔI


Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng,
ban cho anh em được chan chứa niềm vui
và bình an nhờ đức tin,
để nhờ quyền năng của Thánh Thần,
anh em được tràn trề hy vọng
Rm 15,13
TUYÊN DƯƠNG NIỀM HY VỌNG CỦA MÌNH
Khi Phêrô yêu cầu các Kitô hữu hãy luôn sẵn sàng giải thích niềm hy vọng của mình (x. 1Pr 3,15), ngài không chỉ nói với cộng đoàn các môn đệ, mà còn muốn nói với từng Kitô hữu.
Như thế, thánh nhân cũng mời gọi cả tôi nữa. Tôi phải đích thân tuyên xưng niềm hy vọng của mình, giống như tôi phải tuyên xưng đức tin của mình vậy.
Vì thế, tôi buộc phải cao giọng diễn tả những điều xảy ra trong thầm kín riêng tư giữa Thiên Chúa và tôi. Điều này không phải là chuyện dễ. Nếu nói : “Tôi sẵn sàng thảo một chúc thư thiêng liêng… nhưng sẽ phổ biến nay mai sau khi tôi đã qua đời”, thì e sẽ dễ hơn!
Nhưng, nếu tìm lý nầy lý khác để làm chứng niềm hy vọng của tôi một cách vô danh và chung chung, thì tôi không vâng theo lệnh của thánh Phêrô một cách trọn vẹn. Nên, trong đức tin tôi xin xin mạo muội làm chứng về Chúa Thánh Thần và về niềm hy vọng của tôi.
Niềm tin của tôi vào Thánh Thần không phải chỉ mới xuất hiện mới từ hôm qua.
Khi nhậm chức giám mục, tôi chọn câu «In Spiritu Sancto» (Trong Thánh Thần) làm khẩu hiệu và chương trình hành động trong chức vụ giám mục của mình. Sự việc này diễn ra năm 1945. Lúc đó tôi muốn dấn thân hết mình làm theo những thôi thúc của Thánh Thần, muốn làm việc dưới tác động của Ngài, dù Ngài yêu cầu tôi phải đi vào nẻo đường nào và phải trả giá nào đi nữa.
Sẵn lòng đón nhận Thiên Chúa
Thiên Chúa mà tôi tin hẳn nhiên là Thiên Chúa hằng sống, là Cha, Con, Thánh Thần. Ngay khi còn bé, tôi đã tin sâu xa vào sự hiện diện mầu nhiệm ban sự sống của Ngài. Tuy nhiên, tôi đặc biệt nhấn mạnh nhận thức này, là Thánh Thần soi sáng để chúng ta nhận biết rõ hơn khuôn mặt đích thực của Đức Giêsu, người Con độc nhất của Thiên Chúa, nơi thâm cung lòng mình. Ở các chương trước, tôi có nói rằng dấu chỉ chắc chắn nhất của Phong Trào Canh Tân Đoàn Sủng nằm trong hướng Kitô học của phong trào. Khi tuyên xưng «Đức Giêsu là Chúa», phong trào Canh Tân xác định rằng Đức Giêsu là Con độc nhất của Thiên Chúa. Như thế, phong trào này khác biệt với vô số phong trào «trở về với Đức Giêsu», là những phong trào thích trình bày Đức Giêsu dưới chiều kích thuần túy nhân loại. Đó không phải là Đức Kitô mà Thánh Thần có sứ mạng mạc khải. Đức Kitô đích thực vẫn luôn luôn là Đấng được sinh ra bởi Thánh Thần và Mẹ Maria: Nhắc lại danh hiệu Mẹ Thiên Chúa và nhấn mạnh sự hiện diện của Mẹ là dấu chứng cho những chủ trương thật sự lấy Đức Kitô làm trung tâm.
Theo tôi, Thánh Thần chỉ có một sứ mạng là mạc khải cho chúng ta Chúa Con, và qua Chúa Con mạc khải Chúa Cha. Và dưới tác động của Thánh Thần, Đức Kitô càng ngày càng được mạc khải là một ngôi vị, một “ai” cụ thể. Tôi biết và còn hiểu rõ hơn nữa rằng Kitô giáo không phải là một chủ thuyết mà trước tiên là «một ai đó». Đó là một ân huệ ban cho tôi để có quan hệ thân thiết với Đức Giêsu. Đó cũng là lời mời gọi thôi thúc tôi cởi mở hơn với Đức Giêsu trong cuộc đối thoại với Ngài khi cầu nguyện, để lắng nghe, đợi chờ và sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Ngài. Các thánh đường của chúng ta thường vang lên điệp khúc: «Tôi tìm khuôn mặt, khuôn mặt của Chúa, tôi tìm hình ảnh Ngài, ở tận thâm sâu tâm hồn các bạn». Thánh Thần, Đấng làm ta thấy khuôn mặt ấy ngày càng rõ rệt hơn, đã ban cho chúng ta ân huệ mới mẻ để nhận ra Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Thánh Thần cũng mạc khải cho chúng ta biết Đức Giêsu là Lời. Chắc chắn trước đây mỗi lần đọc Thánh Kinh, tôi đều cố gắng tìm hiểu ý nghĩa phổ quát của bản văn nhờ đọc các chú giải. Việc đó rất cần thiết. Tuy nhiên còn có một cách đọc khác. Với cách đọc sau nầy, Thánh Thần như soi sáng từ trong nội tâm tôi, Ngài biến bản văn Kinh Thánh thành hiện thực sống động, thành bánh hằng sống nuôi dưỡng tôi. Dưới tác động của ân sủng, tôi bắt đầu mở Thánh Kinh ra đọc rất nhiều lần trong ngày với một hương vị mới lạ. Tôi không đọc vì mong tìm được ở đấy một câu trả lời có sẵn cho những vấn đề cuộc sống, mà vì khao khát kết hiệp với Đức Giêsu qua Lời của Ngài, giống như người ta kết hiệp với Ngài qua bí tích Thánh Thể. Tôi đọc vì mong ước nhận ra âm giọng của lời Ngài, nắm bắt trực tiếp sứ điệp Ngài, để Ngài dọi ánh sáng vào cảnh tăm tối trong lòng tôi. Đôi khi tôi chỉ tiếp xúc với Ngài trong chốc lát, như người ta bật sáng que diêm để soi lối đi. Dường như Thánh Thần vẫn tiếp tục ban cho tôi bài học về chú giải không thể quên được mà Đức Giêsu đã dùng để giải thích cho hai môn đệ trên đường Ê-mau buổi chiều nọ: «Bắt đầu từ Mô-sê rồi rảo qua các Ngôn Sứ, Ngài giải thích cho họ những gì liên can tới Ngài trong toàn bộ Kinh Thánh» (Lc 24,27).
Thánh Thần Đức Giêsu là một vị thầy trong nội tâm. Mục đích Ngài đeo đuổi không gì khác hơn là mở lòng trí chúng ta để chúng ta hiểu được Kinh Thánh mà Ngài linh hứng. Chính Ngài đã soi sáng tâm trí, sưởi ấm cõi lòng khiến hai môn đệ kia phải thốt lên với nhau: «Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bùng cháy lên sao?» (Lc 24,32). Vô số nhân chứng đã nói với tôi rằng sau khi có chứng nghiệm thiêng liêng về Canh Tân, thì ngay hôm sau Thánh Kinh đã trở nên nguồn nước hằng sống cho họ. Đến phiên tôi, tôi cũng xác nhận y như vậy.
Tôi cũng hiểu Thánh Thần rõ hơn trong hoạt động đoàn sủng rộng lớn của Ngài.
Tôi tin các ân huệ và đoàn sủng của Thánh Thần. Tuy nhiên có một số ân huệ và đoàn sủng được thể hiện như còn xa lạ với đời sống hàng ngày của Giáo Hội và cuộc đời tôi. Phong Trào Canh Tân Đoàn Sủng đã đánh thức đức tin còn mê ngủ nơi tôi, giúp tôi nhận ra Thánh Thần đang hoạt động nơi tất cả mọi thứ đoàn sủng. Phong trào buộc tôi phải tự đặt cho mình một số câu hỏi rõ rệt. Tôi có thực sự mong mỏi rằng Thánh Thần ngày nay vẫn còn đang nói và hoạt động qua các đoàn sủng tiên tri, chữa bệnh, chú giải, làm phép lạ không? Hẳn nhiên cũng cần phải có đoàn sủng phân định để nhận ra các đoàn sủng khác: nhưng từ thái độ cân nhắc đến việc quên lửng các đoàn sủng trên của Thánh Thần, thì khoảng cách quá xa! Tôi đã hiểu ra rằng chúng ta phải khám phá lại những kho tàng còn bị ẩn giấu đó.
Tôi đã khám phá ra rằng tôi thực sự chưa hết lòng tin vào lời hứa của Thầy Chí Thánh, khi Ngài bảo đảm rằng các môn đệ Ngài sẽ làm được những điều vĩ đại hơn cả chính Ngài, bởi lẽ chính Thánh Thần Ngài thực hiện những điều ấy nơi họ (x. Ga 14,12).
Các đoàn sủng của Thánh Thần lúc nào cũng có, hôm qua cũng như hôm nay. Chúng vẫn luôn luôn hiệu quả nếu người Kitô hữu biết đón nhận và làm chúng sinh hoa kết trái trong đức tin sống động .
Cởi mở với tha nhân
Cởi mở với Thiên Chúa giúp chúng ta cởi mở với tha nhân trong kinh nguyện và cuộc sống. Chứng nghiệm về lối hội họp đoàn sủng, cũng như chứng nghiệm lối cử hành Thánh Thể có đưa vào một số yếu tố của phong trào Canh Tân, đã giúp tôi hiểu rõ hơn rằng việc cầu nguyện thường ngày của tôi vẫn còn mang tính cách quá cá nhân: tôi cảm thấy không được tự nhiên khi cầu nguyện theo kiểu tự phát trong cộng đoàn, người bên cạnh cầu nguyện lâm râm làm tôi khó chịu, làm náo loạn sự hồi tâm «của tôi». Nhưng sau đó tôi đã khám phá ra thế nào là cầu nguyện vừa riêng tư vừa hòa hợp với mọi người, và làm sao để lời cầu nguyện của mình hòa quyện nhịp nhàng với lời cầu nguyện của người khác. Cầu nguyện chung với nhau theo cách này hoàn toàn khác với việc cùng đọc vang lên một lời kinh có sẵn. Tôi đã hiểu rõ hơn thế nào là tự do của con cái Thiên Chúa trước sự hiện diện của Đức Kitô. Điều đó không có nghĩa là không tuân thủ hoặc không tôn trọng những qui tắc phụng vụ. Nhưng thôi, chúng ta hãy giới hạn đề tài của chúng ta trong khuôn khổ đang trình bày.
Sau khi học cách cầu nguyện tự phát trong nhóm như thế, thỉnh thoảng tôi áp dụng lối cầu nguyện nầy ra bên ngoài, chẳng hạn khi có dịp đi thăm viếng riêng hoặc khi đi làm việc tông đồ. Lúc đầu, người ta cảm thấy lúng túng và ngần ngại khi mời một vị khách cùng tĩnh tâm với mình, cùng mở và đọc Thánh Kinh với nhau, cùng hiệp nhất với nhau trong một lời cầu nguyện do mình ứng khởi bằng chính lời lẽ của mình. Cầu nguyện như thế có vẻ rất xa lạ với thói quen cầu nguyện của tôi, dù đây cũng chỉ là ca ngợi, cảm tạ Chúa hoặc cầu xin Chúa soi sáng hầu quyết định một việc gì. Càng hiện diện sống động trước Đức Giêsu, tôi càng dễ dàng được thúc đẩy cầu nguyện theo lối nầy hơn. Chúng ta mong ước trong các phiên họp thượng hội đồng hay họp hội nghị, lối cầu nguyện nầy trở thành cái khung cho những công việc mà chúng ta phải cùng nhau hoàn thành, không những lời cầu xin lúc khai mạc mà hiện diện trong các buổi trao đổi thảo luận của chúng ta. Không bao giờ tôi quên được hội nghị ở Ann Arbor, có khoảng năm mươi đại biểu cùng làm việc với nhau. Rất nhiều lần, vị chủ tọa – là một giáo dân – yêu cầu chúng tôi tạm ngưng thảo luận một vài phút để hồi tâm trước mặt Chúa và để nài xin Thánh Thần Ngài soi sáng cho những quyết định của chúng tôi. Lời cầu nguyện thầm thì chung với nhau – đôi khi bằng tiếng lạ – khiến chúng tôi chìm ngập trong một bầu khí siêu nhiên hiếm thấy.
Lạy Chúa, chúng con còn lâu mới tin thật… những gì chúng con tưởng là mình tin!
Đối xử với chính mình
Khi tham dự những buổi hội họp cầu nguyện đoàn sủng, ban đầu tôi bị đánh động và thậm chí bối rối vì thấy người ta biểu lộ những cử chỉ thể xác một cách khá thoải mái, chẳng hạn giơ cao tay lên trong một số trường hợp nào đó, và thỉnh thoảng vào cuối buổi họp họ cùng đặt tay lên một thành viên nào đó trong nhóm theo yêu cầu của người ấy.
Việc tùy nghi đặt tay này hiển nhiên không mang tính bí tích chút nào; đó không phải là chủ đích của cử chỉ ấy. Cử chỉ này kỳ thực đã được thực hiện trong Giáo Hội và chỉ diễn tả sự liên đới huynh đệ trong sinh hoạt cầu nguyện mà thôi. Còn việc giơ cao tay lên – giống như linh mục làm trên bàn thờ – chẳng qua chỉ là biểu hiện ra bên ngoài lòng sốt mến bên trong. Sự kiện ấy đòi buộc tôi phải xét mình về những động thái bên ngoài của tôi. Chúng ta – nhất là tôi – thường có thói quen kiềm chế cảm xúc, không muốn để ai nhận ra những gì đang xẩy ra trong nội tâm mình. Tính nhút nhát, vị nể, e dè, nề nếp giáo dục: tất cả thứ ấy tạo nên thái độ dè dặt bề ngoài. Chúng ta muốn cầu nguyện bằng tâm hồn chứ không bằng thể xác của mình. Giới trẻ chẳng hề có những mặc cảm ấy, nên họ tự biểu lộ tâm tình ra ngoài một cách thoải mái hơn chúng ta rất nhiều. Nghĩ đến điều ấy, tôi có cảm tưởng chính chúng ta đã kềm hãm lòng hăng say và đã làm cho sự việc vốn không xơ cứng thành xơ cứng. Trong kinh «Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến», chúng ta vẫn hát câu «Xin tưới chỗ khô khan… xin uốn lòng cứng cỏi». Vì thế, chúng ta đừng ngạc nhiên… khi được Ngài nhận lời!
Kể từ đó, tôi càng chăm chú hơn khi đọc lời nguyện mà chúng ta vẫn dâng lên Chúa trong kinh nhật tụng:
«Suốt đời con, nguyện dâng lời chúc tụng
Và giơ tay cầu khẩn danh Ngài
Lòng thỏa thuê như khách vừa dự tiệc
Môi miệng con rộn rã khúc hoan ca» (Tv 62,5-6).
Chỉ cần đọc lướt qua Cựu Ước, ta có thể thu thập được khá nhiều những câu văn tương tự như thế.
Ta cảm thấy rất tự nhiên trong các cử chỉ biểu lộ bên ngoài về tình yêu hay tình bạn, còn biểu lộ tình cảm với Chúa thì lạ thay ta lại thấy bẽn lẽn giả tạo. Bè bạn tôi nói rằng họ thấy tôi tỏ ra nồng nhiệt và vui tươi hơn lúc trước, khi đón tiếp và trò chuyện với mọi người. Tôi không biết, và để cho họ quan sát. Tôi chỉ biết là chính việc “quên cái tôi” của mình và sự thoải mái khi cầu nguyện giúp ta diễn đạt một cách thanh thản những tình cảm của mình với người khác. Thần học cho biết sự kiện ấy chẳng có gì đáng ngạc nhiên, bởi lẽ, theo định nghĩa, Thánh Thần là sự cởi mở, đón nhận, liên kết. Trong tương quan giữa con người với nhau, tất cả những gì đi theo chiều hướng tốt đẹp này đều do Thánh Thần làm nên.
Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là một khía cạnh của vấn đề. Nhìn từ bên trong, kinh nghiệm tâm linh làm nền tảng cho phong trào Canh Tân mà biết bao người khác nhau đã trải qua, không phải là một ân sủng riêng lẻ, khác thường trong bối cảnh sinh hoạt của chúng ta.
Sự đổi mới tâm linh này tăng cường các ân sủng mà trước đây chúng ta đã nhận được qua các bí tích và gắn liền với các bí tích ấy. Riêng trong trường hợp của tôi, các bí tích ấy gồm từ phép rửa tội đến chức giám mục.
Một hôm, tôi xin một nhóm bạn đặt tay trên tôi để cầu nguyện cho tôi được ngày càng trung thành với Thánh Thần hơn, lúc đó tôi có cảm tưởng mình đang vâng lời Thánh Phaolô khi ngài mời gọi Timôthê: «Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh. Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thánh Thần khiến chúng ta đầy sức mạnh, tình thương và biết tự chủ» (2Tm 1,6-7).
Để trình bày trung thực cuộc hành trình của bản thân tôi, thiết tưởng tôi cũng phải kể đến những vấn nạn khác nhau về mặt tín lý đã nẩy sinh trong tâm trí, khi tôi đến với Phong Trào Canh Tân Đoàn Sủng. Trước tiên phong trào này cần phải từ bỏ cách dùng chữ và một hướng thần học phát xuất từ Phong trào Ngũ tuần. Tôi đã tìm hiểu để nắm vững hơn ý nghĩa của các ân huệ và các đoàn sủng, vai trò và giới hạn của chúng, đặc biệt hơn, tôi đã nghiên cứu về những ân huệ đặc thù như ơn nói tiếng lạ và ơn chữa bệnh… Suốt quyển sách này, tôi đã ghi nhận kết quả của những suy tư ấy dù không mô tả chi tiết những tư tưởng qua lại khi nghiên cứu. Cần phải tiếp tục việc nghiên cứu này: các thần học gia của chúng ta có thể giúp ích rất nhiều. Đức Phaolô VI mời gọi tất cả chúng ta đào sâu môn Thánh Thần học hơn nữa. Tuy nhiên, để hiểu được chứng nghiệm về Thiên Chúa, điều thiết yếu là phải tự đặt mình vào chứng nghiệm ấy và khiêm tốn chấp nhận rằng: để giáo hóa chúng ta, Thiên Chúa có thể đào luyện dụng cụ ân sủng của Ngài ở nơi mà chúng ta không ngờ tới.
Kết luận
Tôi đã trình bày tất cả những điều trên thật vụng về, vì người ta không thể dùng ngôn ngữ loài người để diễn tả những gì Thiên Chúa thực hiện trong chiều sâu các tâm hồn. Chúng ta dễ pha trộn vào đó những gì phát xuất từ con người riêng tư của chúng ta. Chỉ một mình Mẹ Maria mới biết hát lên trong kinh Magnificat những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện nơi bản thân mình bằng một cung giọng thích hợp và trong suốt trước Thiên Chúa.
Nội dung của những dòng chữ mọn hèn mà tôi muốn gởi đến quý độc giả là: Chúa ở gần mình; Thiên Chúa không chết; Đức Giêsu đang sống; Thánh Thần luôn trung thành; Lễ Hiện Xuống vẫn tiếp diễn.
Khi viết những trang này, tôi nghĩ đến tất cả những ai đang cần canh tân niềm hy vọng, trong Giáo Hội cũng như trong thế giới hôm nay. Với các linh mục và các giáo dân, cũng như với các anh em giám mục của tôi trên toàn thế giới là những người phải thẩm định, tôi xin nói những lời này: «Đức Gio-an XXIII và Đức Phaolô VI đã không luống công khi cầu xin Chúa ban một lễ Hiện Xuống mới». Lễ Hiện Xuống đang ở ngay trước mắt chúng ta như ánh sáng lờ mờ của hừng đông. Tuy nhiên ánh sáng ấy chỉ trở nên sáng ngời nếu chúng ta biết nhận ra nó, và chấp nhận nó trong tất cả mọi hệ quả. Chúng ta đang sống giờ hồng ân! Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta, nên Ngài không tông cửa mà vào. Tuy nhiên, Ngài đang gõ cửa! Như các môn đệ trên đường Ê-mau, chúng ta hãy nhận ra rằng Ngài đang đi bên cạnh chúng ta, và hãy thưa với Ngài: «Xin hãy ở lại với chúng tôi vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn» (Lc 24,29).
Ngày nọ, một ký giả Nam Tư đã hỏi tôi về cuộc họp Thượng hội đồng giám mục: «Theo Ngài, đâu là trở ngại lớn nhất cho việc phúc âm hóa thế giới?». Tôi đã trả lời không do dự: «Đó là: người Kitô hữu không dám tin vào bản chất Kitô hữu của mình, bản chất đã được tạo thành bằng ân sủng của Thiên Chúa». Tôi biết phúc âm hóa thế giới là một lối nói bao hàm vô số khía cạnh và đòi hỏi đủ mọi kiểu tiếp cận. Ân sủng không hủy diệt bản tính con người: ân sủng uyển chuyển đồng hành với những rắc rối và phức tạp của bản tính chúng ta. Tuy nhiên, nhờ quyền năng Thiên Chúa, ân sủng đưa bản tính chúng ta vượt hẳn lên trên chính mình.
Phải tôn trọng sự đa dạng của các ơn gọi: «Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ» (Ga 14,2), nhưng các ơn gọi chỉ có một nền tảng duy nhất. Dù hoạt động trong môi trường nào, chúng ta hãy cho mọi người cái tốt nhất ở nơi bản thân ta, tức là cho họ Đức Kitô ở trong ta, theo sự thúc đẩy của Thánh Thần: đó chính là cứu độ thế gian.
Tôi cảm thấy đức tin của chúng ta cần thiết phải có chiều sâu để các Kitô hữu có thể đương đầu với thế giới hôm nay và đem Tin Mừng đến cho thế giới ấy. Thánh Phaolô nói: «Lòng yêu mến Đức Kitô thôi thúc chúng ta» (2Cr 5,14). Chúng ta cũng thế, chúng ta phải thể hiện tình yêu Chúa đang sục sôi trước một thế giới đang gặp hiểm nguy và một Giáo Hội đang đau khổ.
Trước đây, tôi có soạn ra một lời nguyện về niềm hy vọng cho các anh chị em trong giáo phận của tôi. Tôi muốn đọc lại lời nguyện ấy ở cuối sách này với một niềm tin tưởng mới mẻ. Tôi xin mời anh chị em cùng chia sẻ lời nguyện này với tôi trong mối hiệp thông tin, cậy, và mến.
Lời nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con,
Đôi mắt để thấy,
Con tim để yêu,
Và hơi thở để sống.

Xin cho chúng con đôi mắt để thấy,
Khi xin Chúa ban cho đôi mắt để thấy
chúng con muốn xin Chúa ban đôi mắt của Chúa
để có thể thấy thế giới, con người và lịch sử
và cả lịch sử riêng của chúng con
như Chúa thấy.
Xin cho chúng con biết sống phù hợp với tư tưởng của Chúa,
ngày này qua ngày nọ, giờ này qua giờ kia.
Cho chúng con dần dần trở nên
điều Chúa nhắm khi tạo dựng chúng con.
Xin cho chúng con chấp nhận
sống theo quan điểm và cách nhìn của Chúa.
Xin giúp chúng con ngoan ngoãn vâng theo Lời Chúa,
là lời sáng soi, biến đổi cả cuộc đời chúng con.

Xin cho chúng con một trái tim để yêu
Một trái tim bằng thịt chứ không phải bằng đá,
để mến Chúa và yêu thương tha nhân.
Xin ban cho chúng con chính trái tim của Chúa
để thật sự yêu thương trong quên mình.
Chúng con cần ghép trái tim Chúa
vào trái tim chúng con
vì trái tim chúng con đang liệt nhược
khi nghĩ đến người khác.
Lạy Chúa, ước gì chính Chúa
yêu thương qua bản thân chúng con.
Xin ban cho chúng con trái tim của Chúa
để yêu mến Chúa Cha, Cha chúng con;
Xin ban cho chúng con trái tim Chúa
để yêu mến Mẹ Maria, Mẹ chúng con;
Xin ban cho chúng con trái tim của Chúa
để yêu mến anh chị em của Chúa
cũng là anh chị em của chúng con;
Để yêu ngay từ cõi đời này
những người đã về trời trước chúng con
– những người ấy rõ ràng dễ yêu hơn –
Và cũng để yêu thương những anh chị em
sống bên cạnh chúng con trên trái đất này
những người đôi khi xô lấn chúng con
một cách vô tình hay hữu ý.

Và lạy Chúa,
xin ban cho chúng con hơi thở
Để chúng con khỏi hụt hơi trên đường đời
để buồng phổi chúng con luôn chất đầy dưỡng khí.
Để giúp chúng con tiến về phía ngày mai
không nhìn lại đằng sau, không so đo hạn chế nỗ lực.
Xin ban hơi thở để chúng con đối diện
với tất cả những gì mà mọi người – cả Chúa nữa –
đang mong đợi nơi chúng con.
Xin ban hơi thở để chúng con hy vọng
như thể cuộc sống mới bắt đầu sáng nay;
Để hy vọng dù sóng gió bão bùng
vì Chúa hiện diện và hứa hẹn,
khi mang trong chúng con
niềm hy vọng của con người
và mang cả đau buồn của họ.
Xin ban cho chúng con hơi thở,
hay đúng hơn là hơi thở của Chúa
hơi thở Chúa gởi đến từ Chúa Cha
là Thánh Thần Chúa, muốn thổi đâu thì thổi
thổi liên tục hay thổi giật từng cơn
hay thổi như một làn gió nhẹ
khi Chúa mời gọi chúng con
bước theo những gì Chúa thôi thúc.
Cho chúng con hơi thở của Chúa
để thở bằng lời cầu nguyện thâm sâu
đang bay lên nhan Chúa, Đấng ngự trong chúng con
đang mời Chúa trở lại trong vinh quang
đang khát khao sự viên mãn của Chúa.
Lạy Chúa, con cần đôi mắt Chúa
Xin cho con một đức tin sống động.
Con cần trái tim Chúa
Xin cho con tình thương vượt thử thách.
Con cần hơi thở của Chúa
xin cho con niềm hy vọng của Chúa
vì ích lợi của con và của Hội Thánh Chúa.
Để Hội Thánh hôm nay
là một chứng tá cho thế giới,
để thế giới nhận ra các Kitô hữu,
qua cái nhìn rạng ngời và trong sáng,
qua trái tim nồng nàn,
qua niềm lạc quan bất diệt
tuôn lên từ nguồn mạch ẩn giấu
của hy vọng hỉ hoan nơi họ.
Amen.