Vào lúc 9 giờ tôi, bốn người tụ họp trong phòng khách của Mandria chờ đợi Ari Ben Canaan tới: chủ nhà, David Ben Ami, Joab Yarkoni và Zev Gilboa, một dân quê khỏe mạnh xứ Galilée, huấn luyện viên quân sự của Palmach trong trại Caraolos và cũng là chuyên viên hữu hạng về các phương pháp chiến đấu bằng tay không.

Đến 11 giờ, Mandria tỏ vẻ sốt ruột :
- Lạ thật... tôi đã đưa cho ông ta một taxi và một tài xế giỏi...
David nói :
- Xin ông đừng sốt ruột Ari có thể vắng luôn ba ngày, kệ cho chúng ta chờ đợi. Anh đó không làm việc như mọi người.
Sau nửa đêm không đợi thêm được nữa, bốn người thu xếp đi ngủ. Quyết định ấy quả thực hợp lý: Ari chỉ đến vào lúc năm giờ sáng. Nét mặt mệt mỏi, mắt đỏ ngầu, nhưng không thêm nghĩ đến chuyện xin lỗi, Ari đã quay về phía Mandria hỏi :
- Thế nào ông Mandria, ông đã tìm ra cho chúng tôi một chiếc tàu chưa?
Ngạc nhiên, Mandria đưa hai tay ôm lấy đầu :
- Ông tưởng tôi có thể tạo phép mầu được sao! Ông mới yêu cầu tôi lo một chiếc tàu cách đây mới chừng ba mươi giờ đồng hồ là nhiều nhất, chắc ông còn nhớ chứ ngay sau khi ông vừa tới đảo, và tôi đã ra lệnh ngay cho các Công ty của tôi có văn phòng ở các hải cảng Famagouste, La Cynéria, Limassol và Paphos. Vậy mà đến hôm nay các văn phòng của tôi vẫn chưa tìm được một chiếc tàu thích hợp, có kết quả tôi sẽ cho ông biết liền.
Ari lầu nhầu :
- Thôi cũng được. Chúng ta thử kiên nhẫn chờ. Zev nghe đây: Các bạn khác chắc đã cắt nghĩa anh nghe những gì chúng ta định làm. Kể từ hôm nay, tất cả ba anh đều được đặt dưới quyền xử dụng của tôi. Còn công việc mọi khi của các anh ở Caraolos, hãy kiếm người khác thay thế: chúng ta không thiếu cán bộ ở trong trại. Anh Joab, theo ý anh có chừng bao nhiêu trẻ con khỏe mạnh trong khu nhi đồng! Từ hai tới mười tám tuổi?
- Coi nào... khoảng sáu tới bảy trăm.
- Zev, anh chọn lựa trong số đó lấy ba trăm đứa khỏe nhất rồi võ trang cho chúng về thể xác cũng như tinh thần thật vững chắc. Lúc này chỉ cần làm vậy thôi.
Ari đứng dậy :
- Ông Mandria, trong nửa giờ nữa tôi cần có một tài xế khác. Tài xế đang lái xe cho tôi mệt nhừ rồi.
Mandria nói :
- Tôi sẽ lái đưa ông đi, ngay khi nào ông muốn.
- Tốt lắm. Chúng ta sẽ đi khi mặt trời mọc. Bây giờ xin các bạn thứ lỗi, tôi phải lên buồng xem xét một vài tài liệu.
Khi Ari ra khỏi. Mandria giơ hai tay lên trời, than thở.
- Ông ta làm tôi sợ luôn. Một người hy vọng ở phép nhiệm mầu... Một người không hề thổ lộ gì về các dự định của mình...
David phản đối :
- Về điểm thứ nhất thì ông nhầm. Chính vì anh ấy không tin cậy ở phép mầu nên mới làm việc ghê như vậy. Ngược lại ông có lý, khi nói anh không chịu nói nhiều về các dự định. Tôi có cảm tưởng anh ấy đang giấu chúng ta một điều gì: Theo ý tôi việc đào thoát của ba trăm đứa trẻ chỉ là một phần của kế hoạch của anh thôi.
Joab Yarkoni nở một nụ cười vui vẻ :
- Suy nghĩ nhiều làm gì cho nhức đầu! Chúng ta đều biết Ari từ lâu hơi đâu mà đoán tìm việc làm của anh ấy làm gì. Ai hiểu được anh Ari bằng chúng ta, phải biết rằng trong loại công tác này, so với anh ta không ai thực hiện được, nếu được ra chỉ bằng đầu gót chân anh ấy mà thôi. Rồi đây chúng ta cũng sẽ biết những gì anh định làm.
Khi ánh sáng đầu tiên báo hiệu bình minh ló dạng, Mandria cầm tay lái taxi đưa Ari chạy vòng quanh đảo, một cuộc du hành bề ngoài như không có mục đích gì. Ít nói, vừa suy tư vừa suy nghĩ thỉnh thoảng Ari đặt những câu hỏi ngắn nhưng xác đáng. Mandria càng lúc càng có cảm tưởng mình đang làm việc với một người không hề biết xúc động là gì. Dầu vậy, đối với chính nghĩa để “thành lập quốc gia Do Thái” lòng tận tụy của Ari lại không thể ngờ vực được. Như vậy ở đây có một sự mâu thuẫn mà Mandria không thể nào giải thích được. Làm thế nào một con người vừa có thể lạnh lùng bình thản lại vừa say mê cuồng nhiệt như thế?

Hai người đi lang thang trong hải cảng cũ kỹ Famagouste, đi từ vịnh Orient rộng lớn đến tận mũi Greco, dọc theo các bờ đá của bãi biển phía nam rồi leo lên những ngọn núi lởm chởm, nơi có nhiều khách sạn đang chuẩn bị đón tiếp khách nhàn du về mùa đông. Tới khi quá nửa đêm, họ mới trở về Famagouste, Mandria đi chệnh choạng vì mệt nhưng Ari bắt ông phải tham dự một buổi hội họp thứ nhì, vẫn cùng với Zev, David và Joab, khi cuộc họp vừa dứt Mandria lăn ra ngủ vì qua mệt.

Ngay hôm sau - bốn ngày sau khi Ari tới đảo - Đại lý của Mandria ở Lacarna thông báo cho biết có một chiếc tàu có điều kiện như chỉ thị đã cho, vừa vào vịnh và chủ tàu đang muốn bán. Ngay lập tức, Mandria, Ari, David và Joab lên đường đến Lacarna.

Họ đã đi được chừng nửa đường thì đột nhiên Ari yêu cầu cho xe dừng lại. Chàng nhận thấy trong các cánh đồng dọc hai bên đường, nhiều toán thợ đang lo dựng các dãy nhà. David cắt nghĩa :
- Tụi Anh đang xây một cái trại thứ hai. Trại Caraolos đầy tràn người rồi...
Bằng một cử chỉ bực tức, Ari cắt ngang, gắt gỏng :
- Tại sao không ai nói cho tôi biết việc này?
Joab bực tức trả lời :
- Chắc là tại anh quên không hỏi thì đúng hơn.
David vội vã nói thêm :
- Chúng tôi phỏng đoán, việc chuyển người từ trại cũ sang trại mới sẽ bắt đầu từ hai đến ba tuần tới.
Ari gật đầu ra chiều suy nghĩ. Joab, từ nãy tới giờ quan sát Ari một cách tò mò, nhận thấy chàng đang suy nghĩ gì ghê gớm.

Ở Lamaca, chủ nhân chiếc tàu định bán, là một người Thổ tên Armatau, chờ đợi họ ở quán “Bốn cây đèn”. Bằng một giọng lấn áp không để ai cãi, Ari tuyên bố là muốn đi xem tàu ngay lập tức. Armatau đưa họ dọc theo cầu, tiến xa ra vịnh tới nửa cây số. Họ đi qua chừng một chục tàu đánh cá, và thuyền buồm rồi dừng lại trước một chiếc tàu kéo cổ lỗ, vỏ hoàn toàn bằng gỗ và đằng mũi mang tên Aphrodite.

Người Thổ, với vẻ mặt huênh hoang, nói lớn :
- Các ngài thấy chưa! Thật quả là loại tàu đáng giá đấy chứ.
Nhưng khi thấy những người đi cùng không hề lộ vẻ thích thú, ông nói thêm :
- Dĩ nhiên nó không phải là thuyền đua vô địch rồi...
Ari dó xét chăm chú chiếc tàu. Chàng có đủ kinh nghiệm mà ước lượng chiếc Aphrodite chỉ dài chừng năm mươi thước, trọng tải cỡ hai trăm tấn. Căn cứ vào cách đóng cùng tình trạng tồi tàn, chắc tàu đã được hạ thủy từ đầu thế kỷ này. Ari bỗng nhiên quay lại hỏi chủ tàu :
- Tôi hỏi ông một câu thôi: tàu ông có đủ chắc để đi một chuyến tới bờ biển Palestine không, có hay là không? Một chuyến đi thôi. Đừng quên một chuyến có nghĩa là hai trăm dặm ngoài biển khơi.
Người Thổ giơ hai tay lên trời :
- Tôi thề trước linh hồn mẹ tôi là tôi đi lộ trình Chypre - Thổ tới ba trăm lần rồi mà không gặp trục trặc nào. Hơn nữa, ông Mandria đây có thể xác nhận cho lời tôi nói là đúng. Ông ấy là chủ hãng tàu, ông biết rõ lắm.
Mandria nói :
- Đúng lắm. Aphrodite tuy già nua nhưng còn chịu trận được.
- Được lắm. Ông Armatau, xin phiền ông cho hai bạn tôi đây lên tàu coi máy móc...
Khi người Thổ, David và Joab đã mất hút sau buồng dẫn xuống hầm tàu, Mandria quay lại Ari.
- Hắn là người Thổ, nhưng ta có thể tin cậy được.
- Theo ý ông, cái thứ xác tàu này có thể đặt tới vận tốc tối đa là bao nhiêu?
- Khoảng chừng năm gút, với gió thuận tốt. Dĩ nhiên, ta chẳng nên vội vã quá.
Chừng nửa giờ sau, David và Joab trở lên boong. David nói :
- Đây không phải là một chiếc tàu, mà là một khối sắt nổi thì đúng hơn. Như thế này, tôi tin chắc là nó thích hợp cho công việc của chúng ta!
- Chú tin là nó sẽ chở nổi ba trăm người không!
- Ba trăm hả... nếu ta chèn ép họ vào đấy, có thể được lắm chứ.
- Được rồi. Bây giờ xin ông Mandria coi sóc việc sửa sang lại tàu. Chắc là nhiều chuyện vui đấy. Khỏi cần nhắc là ông phải tránh làm mọi người chú ý tới.
Mandria nở nụ cười sung sướng như cá gặp nước :
- Ông đừng lo. Chắc ông cũng biết tôi quen biết nhiều. Ngày nào ta còn biết chỗ cần lo lót, thiên hạ sẽ để ta yên: không ai quan tâm gì đến đâu.
- Hy vọng là thế, bây giờ đến việc khác: David, tối nay chú gởi một điện văn về Palestine. Nói với chúng, ta cần một thuyền trưởng và hai thủy thủ.
- Anh tin một thủy thủ đoàn ba người là đủ sao!
- Dĩ nhiên không, nhưng thôi... báo luôn cho các anh biết là hai anh, Zev và cả tôi nữa, chúng ta lợi dụng chiếc quan tài nổi này để trở về Palestine. Lúc đó chúng ta sẽ phụ vào một tay với thủy thủ đoàn như thế là đủ số.
Ari quay lại chú tàu người Thổ, đang ngẩn mặt ra trước hàng loạt câu hỏi, mệnh lệnh và quyết định liên tiếp.
- Xong rồi, ông Armatau. Ông hãy cười lên một cái: Ông đã thành công trong việc bán cho bọn tôi cái vỏ tàu cũ rích này rồi đó. Nhưng không phải với cái giá ông định đâu. Chúng ta hãy trở về quán “Bốn cây đèn” để bàn cãi cho đứng đắn.
Trước khi rời bến tàu, Ari lại dặn :
- Suýt nữa quên... David và Joab, hai anh hay trở về Famagouste bằng phương tiện riêng. Ngay sau khi mua tàu xong xuôi, ông Mandria sẽ đưa tôi tới Cyrénia.
Mandria kêu lên kinh ngạc :
- Đi Cyrénia? Bộ ông không bao giờ biết mệt sao? ... Cyrénia ở tận bên kia đảo mà.
- Xe của ông trục trặc sao?
- Không... không... vâng, đồng ý chúng ta sẽ đi Cyrénia.
- Xong rồi, mời đi theo tôi. Cả ông Armatau nữa.
Khi Ari lôi Mandria và Armatau đi, David gọi theo :
- Anh Ari! Đặt tên gì cho chiếc tàu khốn khổ này.
- Chú kiếm đi. Chú có khiếu làm thi sĩ mà...
Đứng trên ván gỗ đưa tới sàn tàu, David và Joab nhìn ba người khuất dần ở đầu bến. Rồi quay lại nhìn nhau, hai người vùng ôm lấy nhau vui sướng. Joab la lên thích thú :
- Cái anh Ari quái ác này! Loan báo bọn mình được phép trở về xứ, cái kiểu gì vậy.
Tươi cười, Joad leo lên tàu và đi dọc theo boong hư nát.
- Cũ ơi là cũ! Hay ta đặt tên nó là Bevin.
David lắc đầu :
- Tôi đã tìm thấy một tên hay hơn. Kể từ nay, nàng Aphrodite nhan sắc tàn phai này được tên là Exodus[3].
* Chú thích:
[1] Palmach: tên gọi các đơn vị xung kích của Do Thái.
Những người võ trang đầu tiên của Do Thái thành lập đoàn Vệ Quân Hashomer hoạt động lưu động, thường chỉ để chống lại các dân Bédouin chuyên môn ăn cướp xứ Patestine. Khi người Do Thái đã đông hơn, thành lập nhiều nông trường tập thể họ tổ chức HAGANAH, gồm tất cả nam nữ ở tuổi cầm súng được. Đặc biệt là đoàn quân này không thoát ly sản xuất, vừa chiến đấu vừa canh tác và dĩ nhiên không quân phục - dù có bộ chỉ huy tối cao riêng. Đến đệ nhị thế chiến, vì cần dùng du kích chiến để quấy phá hậu phương quân Đức, quân lực Anh nhờ HAGANAH đề cử người tham dự các đơn vị du kích do chính người Anh huấn luyện: các đơn vị này hợp thành PAlMACH, chuyên đánh du kích và đặc công. Sau đệ nhị thế chiến, các đoàn viên PAlMACH trở thành các cán bộ quân chính, đa hiệu, hoạt động trong mọi lãnh vực. Các đơn vị này, sau khi Do Thái dành được độc lập, do trở thành nồng cốt cho quân lực chính qui của Israel. Những người ở trong đoàn này được gọi là Palmachnik.

[2] Ghetto: cho tới đệ nhị thế chiến, các người Do Thái phải sống tập trung trong các khu vực riêng do chính quyền địa phương cưỡng buộc. Các khu này được gọi là Ghetto.

[3] Exodus (Exode): theo Kinh thánh, sách xuất Ê-díp-tô ký, dân Do Thái thời cổ bị bắt đầu làm nô lệ ở Ai Cập. Nhờ có Moise tranh đấu và hướng dẫn, dân Do Thái đã lên đường di cư về cố hương. Chuyến di tản gọi là Exodus hay Exode (pháp ngữ) trong Cựu ước kinh.