|
THÁNH LỄ MẠNG SỐNG
"Khi cha Mậu bị điều đến nơi xử, tôi thấy cha hết sức bình tĩnh, hai tay chấp lại như đang dâng thánh lễ''
Lới chứng của bà Maria Di có lẽ nói lên được tâm tính của thánh Đa Minh Hà Trọng Mậu trong ngày tử đạo. Ba mươi năm linh mục, biết bao thánh lễ trên bàn thờ, chắc chắn giờ đây cha cũng hân hoan khi được hiến dâng mạng sống của mình như đức Giêsu xưa trên đồi Gôn-gô-tha. Tại bờ sông Hưng Yên hôm ấy, giữa tiếng quát ồn ào của quân lính và dân chúng, ngài quỳ gối thinh lặng, ngất ngây cầu nguyện và nghiêng mình lãnh nhận nhát gươm hồng phúc.
Năm 1794, làng Phú Nhai, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, quê hương của thánh Tô-Ma Dụ và Đa-Minh Đạt, đã được vinh dự chào đón ngày sinh của bé Đa-Minh Hà Trọng Mậu, vị tử đạo tương lai. Lớn lên cậu xin phép cha mẹ, ông bà Đa-Minh và Maria Mỹ, dâng mình cho Chúa và sống chung cùng những người bạn đồng chí hướng. Như hạt giống tốt được ươm vào mảnh đất phì phiêu, nơi đây cậu Mậu được học hành chữ nghĩa và tập tành các nhân đức, cũng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và đạo đức, càng được mọi người mến thương.
Tiếp đó, cậu Mậu, nhận thấy Chúa muốn mình tiến xa hơn, nên cậu xin vào chủng viện và kiên trì học tập cho đến ngày thụ phong linh mục. Năm 1829 cùng với 10 vị linh mục khác trong giáo phận, cha Mậu xin vào dòng Đa-Minh để kết hợp mật thiết hơn với Chúa và gắn bó với nhau trong sứ mạng giao giảng Tin Mừng. Năm sau cả 11 vị khấn dòng. Lớp tập của cha sau này tử đạo bảy vị, sáu vị kia đều thuộc các đấng đáng kính chờ được phong lên bậc chân phước.
Trải qua qua những ngày gian khổ dưới cuộc bách hại của vua Minh Mạng rồi những ngày bình an hơn dưới thời vua Thiệu Trị, cho đến 10 năm đầy khó khăn, thời vua Tự Đức, cha luôn luôn tỏ ra là người tận tụy với đoàn chiên, không quản ngại vất vả, không lùi bước chước khó khăn, đem hết tâm trí, sức lực cho các linh hồn. Cha đảm nhiệm nhiều giáo xứ, nhưng bất cứ nơi nào cần, cha sẵn sàng đến, coi thường mọi hiểm nguy.
Ngày 27/8/1858, quan quân đến vây làng Kẻ Diềm và bắt cha Mậu, những người phục vụ trong nhà xứ và và một số giáo dân khác, giải về Hưng Yên. Hơn hai tháng bị giam trong ngục, dầu bị mang gông xiềng xích và bị tra tấn nhiều lần, cha vẫn cương quyết tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa. Ngược lại cha biến nhà giam thành một nơi hoạt động mới. Tại đây, cha gặp gỡ và khích lệ các giáo hữu cũng bị giam chấp nhận mọi khổ đau vì niềm tin. Tại đây, cha giúp nhiều tội nhân hoán cải đời sống. Đặc biệt, một số phụ nữ tìm cách đưa các giáo hữu ở ngoài vào thăm để xưng tội với cha.
Mặc dù phải ra vào nhiều lần, nhưng cha luôn luôn giữ trong mình chuối lần hạt Mân Côi. Cha cố dành ra những giờ để cầu nguyện và suy niệm về cuộc khổ nạn của chúa Giêsu. Đối với mọi người, cha luôn cư xử cách nhân ái, yêu thương, săm sóc, nên ai cũng yêu quý cha, Bà Anna Nguyên Ngoan, một người vẫn thường xuyên vào thăm cha trong tù, khẳng định rằng: ''Các lính canh cũng phải kính nể và thán phục cha''.
Khi thấy không thể làm cho chiến sĩ đức tin bỏ đạo, quan tỉnh Nam Định lên án trảm quyết cho cha và 21 giáo hữu khác. Khi biết tin này cha Mậu tỏ ra hân hoan, giúp đỡ các giáo hữu xưng tội và chuân bị đón nhận hồng phúc tử đạo.
Ngày 5/11/1858, trên đường ra pháp trường, mọi người tham dự có cảm tưởng cha đang nghiêm trang cử hành Thánh lễ. Ngước mắt lên trời, đôi khi tay chắp lại, cha dẫn đầu đoàn tử đạo. Khi đến nơi xử, bên bờ sông Hưng Yên, cha quì gối xuống, tiếp tục cầu nguyện ít lâu, rồi đưa cổ cho lý Hình chém. Thi thể cha được mai táng trọng thể tại nhà xứ Mai Linh, tỉnh Nam Định. |
|