|
|
BÁO TỐ VÀ NIỀM TIN
Đúng ngày bị hành quyết, cai đội Giuse Lê Đặng Thị thức dậy rất sớm. Ông đánh thức một tù nhân cũng bị xử tử cùng ngày, rồi đưa anh vào một góc nhà giam. Sau nhiều ngày tận tâm hướng dần dần người bạn dự tòng này, hôm nay (24/10) ông nghiêm trang đổ nước rửa tội cho anh: ''Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần''; thế là ông có người bạn đồng hành cùng với mình vào quê hương vinh phúc trên trời.
Giuse Lê Đặng Thị sinh năm 1825 tại xứ Kẻ Văn, làng Văn Quy, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình binh nghiệp. Thân phụ anh giữ chức cai đội. Lớn lên, anh cũng theo nghề của cha, xin nhập ngũ phục vu trong quân đội nhà Vua. Một thời gian sau, anh được thăng trưởng-vệ trông coi lính ở Hà Tĩnh, rồi được dời về Nghệ An. Tại đấy anh lập gia đình và sống hạnh phúc với vợ con.
Vua Tự đức sau một thời gian bách hại đạo gắt gao, đã phát hiện ra lệnh của mình chưa thi hành đồng loạt, vì trong hàng ngũ lãnh đạo, cũng có người theo đạo Công Giáo. Ngày 5/12/1859, nhà vua ra thêm một chiếu chỉ bắt tất cả các quan có đạo đó: "Những quan nào có đạo (theo tà đạo) dù thành thực bỏ đạo cũng phải truất chức. Cần phải điều tra cẩn thận để tìm thêm những viên chức triều đình theo tà đạo. Nhựng ai không tố giác, hoặc chứa chấp trong nhà mình, cũng bị trừng phạt như chúng". Nhà vua còn bắt tất cả các quan phải bước quan Thập Gía trước khi ra trận đánh giặc tây: ''Ai không bỏ đạo sẽ bị giải ngũ , bị khắc chữ tà đạo vào má và phạt lưu đày".
Theo lời khuyên của quan trấn thủ, ông cai đội Lê Đăng Thị làm đơn xin xuất ngũ cớ bệnh tật. Đơn xin được chấp thuận, ông trở về quê cũ để vợ con ở lại Nghệ An. Tháng giêng năm 1860, chiếu chỉ vua Tự Đức trên đây áp dụng triệt để trên toàn quốc, ông cai Thị vì có kẻ tố giác, nên bị bắt ngày 19/1, cùng với một số bạn đồng ngũ khác và bị giải về Quảng Trị. Ông vui vẻ nhận mình là Kitô hữu .
Cuối tháng hai, ông phải ra tàu với 31 quân nhân khác. Trong số đó có ba người bỏ đạo, tất cả đều bị cắt chức, một được tha vì gìa yếu, con lại 10 người bị thích tự, lưu đày chung thân, 17 người bị án tử hình giam hậu.
Riêng ông cai Lê Đăng Thị nhận án xử giảo, nhưng hẹn đến cuối tháng 10 mới thi hành. Từ đó ông được đưa về giam ở khảm Huế. Trong một lá thư gửi về cho vợ, ông viết: "Tôi nghĩ rằng chúng ta không thể gặp nhau nữa, dầu chuyện gì xảy ra, chúng ta vẫn đang và yêu thương nhau. Tôi luôn nhớ mình và các con mỗi ngày".
Suốt thời gian trong tù, vì là anh lính có cấp bậc cao nhất, ông cai Thị khích lệ các anh hùng đức tin cùng bị giam bằng lời nói và nhất là bằng mẫu gương trung thành, can đảm, cũng do chức vụ ấy, ông bị mang một gông rất nặng và bị đánh đập tra tấn nhiều hơn mọi người. Dù còn trẻ trung sung sức, nhưng trước những cực hình dã man, ông đã ngã bệnh. Khi đó, ông nói: "Tôi không biết Chúa có cho tôi sống đến ngày tử đạo không, tôi sợ bệnh làm tôi chết sớm hơn. Than ôi! chắc vì tội tôi, nên Chúa từ chối cho tôi ơn trọng ấy".
Một linh mục đến thăm và giải tội cho ông. Hôm sau một thầy giảng cũng lẻn vào trao mình Thánh Chúa cho ông. Ngày 24/ 10/1860, ông cai bị dẫn đi hành hình. Viên quan đề nghị ông lần cuối cùng xuất giáo và hứa sẽ xin vua ân xá, nhưng ông cai Thị quyết liệt từ chối. Bản án của ông được ghi như sau: "Lê Đăng Thị, Trưởng vệ, theo tà đạo, không chịu bỏ đạo thì y không thể được tha thứ. Y bị kết án xử giảo cuối thu".
Tại pháp trường An Hòa (Huế) ông cai kính cẩn quì trên chiếu cầu nguyện. Một linh mục đứng lẫn với đám dân ra dấu hiệu giải tội lần cuối cùng cho ông. Sau đó, ông kêu lớn tiếng: "Vạn phúc! Vạn phúc! Tôi sắp được tử đạo". Lý hình quấn một sợi giây vào cổ ông cai đội rồi chia ra hai bên kéo thật mạnh cho tới khi chứng nhân Chúa Kitô tắt thở. Các tín hữu phủ Cam tổ chức lễ an táng đông đảo tại xứ mình. Hiện nay hài cốt vị tử đạo còn được lưu giữ tại Nhà Thờ dòng Chúa Cứu Thế Huế. |
|