|
ÔNG QUAN BÊN ĐẠO DƯỚI MẮT ÔNG QUAN BÊN ĐỜI
Trên đường ra pháp trường, từ nhà ngục Hà Nội đến ô Cầu Giấy, người tù tội ốm yếu bệnh tật với tuổi già 76, bước chẳng nổi nữa . Ông bước lao đao rồi ngã qụy xuống đường. Trước tình cảnh tang thương đó, môt người lính đoạn hành quyết khom lưng cõng tử tội đến nơi xử và được tử tội âu yếm tặng đôi giày của mình làm kỷ niệm. Thấy thế, lính chẳng ngỡ ngàng, dân chúng nghẹn ngào, các tín hữu xúc động cảm mến người hành quyết cõng tử tội đến pháp trường.
Tử tội là linh mục Phêrô Trương Văn Thi.
Phêrô Trương Văn Thi mở mắt chào đời năm 1763 tại làng Kẻ Sở, huyện Thanh liêm , tỉnh Hà Nam. Năm 11 tuổi, cậu được nhận vào nhà Đức Chúa Trời để tu học, tập tành nhân đức, rồi trở thành thầy giảng. Trong chức vụ này, thầy thi luôn chứng tỏ nhiệt tâm tông đồ, đời sống đạo đức. Với khả năng Đời-Đạo, thầy được gửi vào đại chủng viện. Đến ngày 23/3 /1806, thầy lĩnh chức linh mục khi đã 43 tuổi.
Trong 27 năm liền, cha Thi coi sóc xứ Sông Chảy thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Năm 1833, ngài được bổ Chính xứ Kẻ Sông và ở đó đến khi tử đạo năm 1839. Theo lời chứng của các tĩn hữu tại đây, cha Thi là một linh mục: ''Rất nhân đức, mỗi ngày đọc kinh cầu nguyện ba bốn lần, cử hành thánh lễ trang nghiêm, ăn uống đạm bạc, thường ăn chay các thứ sáu, mặc dù sức khòe của ngài yếu kém với chứng đau bụng thường xuyên''.
Linh mục Thừa sai Dăng-tét Khiêm, sau làm Giám mục Tây Đàng Ngoài, đã viết về cha Thi: ''Tôi quen biết ngài từ năm 1835, tôi cảm phụcngài về lòng đạo đức thâm sâu, có tính hiền hòa, khôn ngoan và trung thành giữ lề luật''. Cha sống khó nghèo, ngoài áo chùng thâm, cha mặc áo đồ màu nâu như nông dân nghèo nàn. Ngoài giáo xứ chính, cha còn phụ trách thêm nhiều họ lẻ. Một lần di chuyền trên sông, thuyền của cha bị đắm. người tháp tùng của cha bị chết đuối, còn cha sống sót nhờ bám vào thùng gỗ đựng đồ lễ. Suốt mấy chục năm phục vụ giáo xứ, không hề thấy ai kêu ca, chê trách cha lời nào.
Do chiếu chỉ cấm đạo của vua Minh Mạng, cha Thi luôn hoạt động âm thầm. Được một thời gian khá lâu, bất ngờ vào ngày mùng 10/10/1839, khi cha Dũng lạc ở làng kế cận tìm đến xưng tội, viên lý trưởng người Pháp hay tin, đưa người đến bắt cả hai linh mục. Lý Pháp mặc cả giá tiền chuộc với các tĩn hữu và ngã giá 200 quan. Khi các tĩn hữu mới gom được nửa số tiền, ông chỉ tha một mình cha Dũng Lạc, ai ngờ trên đường về, cha Dũng Lạc lại bị tốp lính khác bắt được. Thế là Lý Pháp không dám cho chuộc cha Thi nữa và cho áp giải về Bình Lục. Giữa đương ông gặp nhóm lính áp giải cha Dũng Lạc, liền nộp cha Thi cho quan huyện từ đó, hai vị cùng chung một số phận tù ngục và cùng chung hưởng vinh phúc vinh quang.
Quan huyện Bình Lục tỏ ra vị nể hai vị linh mục. Riêng với cha Thi, quan ái ngại cho tuổi già sức yếu, nên cư xử lịch thiệp hơn. Ông nói: ''Tôi làm quan bên đời, còn ông làm quan bên đạo''. Dĩ nhiên quan đã hiểu sai về chức vụ của linh mục, nhưng dẫu sao, cũng là bằng chứng của sự kính nể. Biết không thể lay chuyển được lòng tin của hai vị, quan không tra tấn gì cả, chỉ giữ lại ba ngày rồi cho giải về Hà Nội. Như Phi La Tô rửa tay trong vụ án đức Giêsu, viên quan huyện cũng mở cúng bái các thần, thanh minh với mọi người và xin trời đất chứng giám mình vô can trong cái chết của những người vô tội.
Khi hai cha được đưa lên Hà Nội bằng thuyền theo đường sông, các tĩn hữu kéo nhau đi theo rất đông, kẻ đi thuyền người đi bộ trên bờ đê.
Ngày mùng 16/10, thuyền áp giải hai cha cập bến. Hôm sau, quan cho điều hai cha ra công đường và bắt đạp lên Thánh Gía. Cha Thi quỳ xuống nghiêm trang hôn dấu chỉ đấng cứu độ, sau nhiều lần tra hỏi, quan thấy không có cách nào khuất phục hai vị linh mục liền lên án xin vua trảm quyết.
Trong khi trờ đợi vua phê án, cha Thi biết dõ số phận hồng phúc của mình, cha chuẩn bị đón nhận ơn phước tử đạo. Cha gia tăng cầu nguyện và hãm mình. Cha ăn chay các ngày thứ 2, tư, sáu, và thứ 7. Bệnh tật gông cùm (dù cha chỉ phải mang gông nhẹ) và chay tịnh làm cho sức khỏe của cha ngày càng sa sút. Linh mục thừa sai Dăng-tét Khiêm viết thư vào đề nghị cha giảm bớt khổ chế đi, nhưng cha vẫn không thay đổi.
Ngày 21/12/1839, lần thứ hai khi cha Trân đưa mình Thánh vào, cha Thi liệt gường, phải nhờ cha Dũng Lạc trao Thánh Thể. Không ngờ chính hôm đó lại là ngày cuối cùng của cuộc đời dương thế của các ngài, bản án chuẩn tâu và vua đã phê chuẩn cũng về tới. Quân lính dẫn hai cha ra pháp trường. Trên đường cha Thi không còn sức đi nữa, nên một người lính đóng vai Simon cõng cha đến thụ án.
Quảng đường cuối của cha Thi, đôi giày là kỷ vật tặng cho người lính, hình ảnh một "Simon Xirênê Việt Nam cõng tử tội ra pháp trường...", làm sao có thể diễn tả hết ý nghĩa của những điều đó. Phải chăng hình ảnh đó có thể khái quát được bảo tàng của Giáo hội Việt Nam thời khai nguyên? Phải chăng điều đó xóa đi đố kỵ còn sót lại đến ngày hôm nay? Và phải chăng hình ảnh đó ch phép ước mơ một xã hội với tương lai sáng lạn hơn, khi mọi người vượt qua trở ngại để đối xử với nhau bằng trái tim yêu thương?
Giáo hữu thấm máu hai vị tử đạo, thâu lượm các kỷ vật rồi đưa thi hài các ngài về Kẻ Sở dâng lễ an táng cách trọng thể.
|
|