|
AN VUI TRONG HIỂM NGUY
Phêrô Vũ Đăng Khoa sinh năm 1790 tại làng Thuận Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cậu là con thứ ba trong bảy người con ông Phêrô Vũ Đình Tâm và bà Maria Nguyễn Thị Hoan.
Lên tám tuổi, cậu Khoa được học chữ hán, rồi tiếp tục học thêm với hai linh mục Hòa (Hoan) và linh mục Phương. Nhận thấy cậu có trí thông minh, tính tình hiền lành lại có ý dâng mình cho Chúa, hai cha đã gửi cậu vào học tại Đại Chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định) dưới sự giáo huấn của cha Tổng Đại diện Dăng-tét Khiêm. Năm 1820, thầy kHoa được thụ phong linh mục
Vvới nhiệt tình của người thanh niên ba nươi tuổi, cha Vũ Đăng Khoa được bổ nhiệm làm phụ tá cho cha Nguyễn Thế Điểm, coi sóc hai xứ Lu Đăng và Vĩnh Phước, thuộc hạt Bố Chính. Trong thời gian chín năm làm phụ tá, cha Khoa đã hăng say trong nhiệm vụ, học hỏi thêm chức vụ chủ chăn. Nhờ có đời sống đạo đức và niềm nở với mọi người, cha đã có thu hoạch nhiều thành quả tốt đẹp.
Năm 1829, Đức Cha Hava Du bổ nhiệm cha về coi sóc giáo xứ Cồn Dừa. Về nhận xứ mới, cha Khoa vận dụng hoàn cảnh thuận lợi, khiến cho công tác mục vụ ngày càng tiến triển không ngừng. Trong những công việc bân rộn của giáo xứ, cha giữ được nét trang nghiêm, nói năng điềm đạm, nhất là luôn quảng đại nhân từ, nên được mọi người kính nể và yêu mến.
Ngày mùng 6/1/1833 vua Minh Mạng ra chiếu chỉ trên toàn quốc: lùng bắt các giáo sĩ nước ngoài cũng như bản xứ, kể cả các tín hữu, triệt hạ các thánh đường và các cơ sở tôn giáo. Nhất là chiếu chỉ thứ ba sau ngày 25/1/1836, cha Khoa đã phải thay đổi chỗ ở luôn để có thể thực hiện công tác mục vụ trong hai năm liền (1836-1838). Mặc dù hoàn cảnh bất lợi và hiểm nguy, cha vẫn an vui vì thấy mình đang sống như Chúa Giếu xưa: "Cáo có hang, chim có tổ, nhưng, con người không có chỗ gối đầu".
Người môn đệ của Chúa Kitô, cha Phêrô Vũ Đăng Khoa đâu ngỡ mình sắp được chia sẻ con đường khổ nạn theo chân Thầy Chí Thánh. Đó là đêm 2/7/1838, cha đang trú ẩn ở làng Lê Sơn, hạt Bố Chính thì một văn nhân tên là Tu Khiết đột nhập vào nhà bắt trói cha cùng với hai thầy giảng Đức và Khang. Sau đó Tu Khiết đeo gông vào cổ các ngài rồi giải tất cả các ngài lên Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình ngày mùng 10/7/1838.
Tại công đường Đồng Hới, quan tra tấn cha Khoa nhiều lần, khuyên nhủ cha bỏ đạo và khai báo chỗ ở của các linh mục, đặc biệt là thừa sai Canđa Kim. Quan ra lệnh đánh cha 76 roi để uy hiếp tinh thần, nhưng quan vẫn chẳng khai thác được điều mình mong đợi. Không thành công trong việc tra khảo cha Khoa quan quay sang thầy giảng Đức và Khang, thầy Khang khai báo sao đó, khiến quan tìm ra nới trú ẩn của thừa sai Cao và Cha Điểm, ít lâu sau hai thầy cũng bị giam cùng cha Khoa (31/7).
Quan quân tiếp tục thi hành nhiều mưu kế và thô tục hòng lung lạc đức tin cha Khoa cùng các vị khác. Là linh mục, cha Khoa cương quyết đi trọn con đường khổ nạn. Các quan chuyển bản án vào kinh đô để xin nhà vua phê chuẩn cùng với án trảm quyết thừa sai Cao và Điểm.
Từ đó ba vị mong đợi ngày vinh quang sắp tới, phó thác đời mình trong tay Đức MẸ, ba linh mục hằng ngày cung nhau đọc kinh Mân Côi và hát vang bài ca: "AVE MARIA Tenla! Kính chào Maria, là Sao Mai rực rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con!". Mấy ngày đầu, vì chua ra tràng hạt, ba vị dùng lông quạt để nhớ Kinh. Ba cha phó thác đời mình cho NỮ VƯƠNG các linh mục: "Như xưa MẸ đã dâng Con Yêu Quí trong đền Thờ, nay cũng xin Mẹ dâng chúng con trong cuộc tử nạn đầy hồng phúc. |
|