|
TÔI TRUNG KHÔNG THỜ HAI CHỦ
"Tôi trung không thờ hai chủ" lời cuối cùng phát ra từ miệng Thánh Phanxicô Nguyễn Cần đã tóm tắt cuộc đời của thầy, một người tôi trung, sống trung thực với suy nghĩ của mình, trung tín với giáo lý tin mừng và cuối cùng đã trung kiên vượt qua mọi thử thách, xứng đáng nhận lời chúc phúc: "Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh" (Mt 25,21).
Phanxixô Cần còn có tên thật là Nguyễn Tiên - tức Tiên Truật, sinh năm 1803, tại xã Sơn Miêng, huyện Phú Xuyên, Phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, Hà Nội. Từ niên thiếu, cậu Cần đã ước ao dâng mình cho Chúa, nhưng mẹ cậu vì thương nhớ, không muốm xa con, nên từ chối. Cậu phải nói với mẹ: "Nếu mẹ không bằng lòng cho con ở với cha xứ nhà, con sẽ trốn đi, ở với cha xứ khác". Thế là bà mẹ cũng phải chiều ý cậu ở với cha Nghi, chánh xứ Sơn Miêng.
Nhờ đức hạnh tốt và siêng năng, cậu được vào chủng viện, trở thành thầy giảng, được đi giúp Đức Cha Hava Du, rồi cha Rơto Liêu (1838 lên chức giám mục, gọi là Đức Thầy Liêu ). Cha Liêu đã nhận xét thầy Cần: "Thầy giúp tôi học tiếng việt, chia sẽ với tôi mọi khó khăn, hiểm nghuy thiếu thốn. Thầy rất nhiệt tâm trong việc tông đồ".
Ngày 19/4/1836, cha Liêu nhờ thầy đi mời cha Tuấn về xứ Kẻ Chuông giảng, chuẩn bị Lễ Phục Sinh. Nhưng khi thầy đến xứ Kẻ Vác, nơi cha Tuấn ở thì bị bắt. Quân lính bèn đem dấu ảnh tượng vào túi sách của thầy để có chứng cứ cụ thể. Thầy bị giải về huyện Thanh Oai và tống vào ngục.
Trước công đường, quan nói thầy đừng tin vào các đạo trưởng và hãy đạp lên ảnh đạo, quan sẽ tha cho về nuôi mẹ già. Thầy Cần trả lời: "Thưa quan , tôi chưa thấy các đạo trưởng lừa rối ai bao giờ, còn mẹ gìa tôi không lo, tôi xa nhà đã lâu chẳng giúp gì cho bà". Sau đó quan dùng nhiều lời phê phán, lăng mạ về đạo, thầy bình tĩnh rồi giải thích trình bày về "10 Điều Răn Của Thiên Chúa" và "6 Luật Điều Hội Thánh" dạy, thầy kết thúc bằng lời nguyện tự phát rất cảm động, mọi người ở đó đều cảm phục. Quan tuyên bố kết thúc phiên tòa, đưa thầy về trại giam. Nhưng quan nói nhỏ với những người đứng bên: "Anh này nói có lý. Những giới răn và kinh nguyện của anh chứa đựng nhiều điều tốt lành, có lẽ tôi còn dễ hiểu hơn bản "tập điều" của nhà vua nữa''.
Phần cha Liêu, ở nhà rất buồn, cha tìm mọi cách để cứu mạng thầy Cần. Cha cho người mang tiền theo thân mẫu thầy lên huyện để chuộc. Mới đầu, quan đòi 300 quan, sau tăng lên 500, rồi 600, vượt qua con số dự trù, có lẽ vị quan đó không dám cho chuộc thì đúng hơn. Thầy Cần an ủi mẹ: "Xin mẹ đừng lo cho con, con đã ước ao tử đạo từ lâu, xin mẹ chỉ cầu nguyện cho con là đủ".
Có nhiều người tỏ lòng thương hại thầy Cần. Quan khuyên thầy bước qua Thập Gía, thầy cương quyết từ chối. Lính khiêng thầy lên đặt vào ảnh Chúa, thầy ôm chặt lấy Thánh Giá và la lên: "Tôi không đạp lên ảnh Chúa đâu''. Một số giáo dân bỏ đạo nói: "Tội nào Chúa chẳng tha, Phêrô chối Chúa ba lần mà con được làm thủ lãnh Giáo hội''. Người khác lừa dối, cha Liêu nhắn thầy cứ bước qua Thập Gía, rồi sẽ liệu sau. Họ còn đe dọa Nếu thầy không nghe quan sẽ làm khổ cả làng đó. Nhưng tất cả đều không xoay chuyển nổi ý chí sắt đá của vị chứng nhân Đức Kitô. Thầy quả quyết: "Dù thiên thần xuống bảo tôi bỏ đạo, tôi cũng chẳng tin. Dù kính trọng cha Liêu, tôi không thể sai lạc điều đó được. Hơn nữa, tôi biết chắc ngài không ra lệnh cho tôi làm như vậy. Còn với giáo dân, tôi thương mến thật, nhưng cũng không vì họ mà xúc phạm đến Chúa''.
Những người ngoại đạo nói với nhau: "Gía như đạo mình bị cấm, chắc chúng ta bước qua tượng ảnh trăm lần... Tượng đồng, ảnh giấy có chi mà sợ". Thấy không thể lay chuyển được tôi trung của Chúa Kitô. Quan cho giải thầy Cân lên Hà Nội |
|