|
Chươ ng Mười Một
Thảo mở choàng mắt khi người tùy phái Mã Lai thuộc chi Cảnh Sát biên giới lên tiếng gọi từ phía ngoài lều tạm trú: Chàng được triệu lên văn phòng để bổ túc nốt hồ sơ của nhóm 22 người mới tới đêm qua. Thảo đã ngủ được một giấc ngon lành qua đêm đầu tiên trên vùng đất tự do. Giấc mơ đã thành sự thật, mà đầu óc chàng vẫn cứ như mơ!
Trong một khắc đồng hồ chuẩn bị lên phòng lý lịch, khúc phim vượt biên được quay lại trong tâm trí Thảo, khiến chàng như bàng hoàng ngờ vực cả chính mình. Làm sao tin nổi, với chiếc ghe đơn sơ mỏng manh như thế, nhóm chàng đã tới được xứ Mã an toàn chỉ trong 4 ngày!
Đứng rửa mặt bên vòi nước máy mà Thảo thấy mình như vẫn còn đang bập bềnh trên sóng nước. Cuộc hành trình may mắn toàn vẹn, nhưng nghĩ lại mà không khỏi rùng mình kinh sợ. Đừng nói chi đến chuyện phong ba thuyền đắm, hay cái nguy hiểm của hải tặc lộng hành, Thảo nhớ lại những lúc ngồi trên mạn thuyền nhìn xuống mặt đại dương, chàng đã hãi hùng khi tưởng tượng trường hợp một chú cá voi nào đó mát mình nhào lộn đụng nhẹ phải 1 bên ghe thôi, số mạng cả mấy chục người ắt là tiêu ma trong khoảnh khắc! Chàng cũng không sao quên được những buổi ngắm bình minh hay lúc mặt trời lặn trên biển, thiên nhiên đã hiện ra đẹp vô ngần. Nhưng cảnh càng đẹp, trời nước càng bao la, nỗi kinh hoàng càng dâng cao ngập hồn bởi con người trở thành quá bé nhỏ mong manh trước 1 vũ trụ tựa vực sâu sẵn sàng nuốt trửng mình vào. Con người lúc đó chẳng hơn gì một cọng cỏ, một lá cây. Nhạc sĩ Phạm Duy đã chẳng diễn tả chuyện ra khơi như là để biết mặt trùng dương, biết trời bao la, biết đời phong ba, nhưng rồi cũng thực sự để biết ta ... hãi hùng đó sao! Chỉ còn biết tạ ơn Trời, tạ ơn mấy anh em vững tay chèo lái, và cũng tạ ơn cả chiếc máy F-10 trung thành phục vụ cho đến phút chót. Thảo cũng còn nhớ như in vào óc nét mặt hằm hằm của mấy nhân viên cảnh sát tuần giang khi ghe chàng ghé vào cửa sông Kelantan thuộc quận Tumpat nằm sát biên giới Thái Lan, thuộc tiểu bang cũng mang tên như giòng sông. Sau những phút đe dọa cầm tù vì xâm phạm lãnh thổ bất hợp pháp, họ đã bắt mọi người lên bờ để lục soát thật kỹ lưỡng. Khi biết chắc không ai mang theo vũ khí: cũng như không có dấu hiệu khả nghi nào về gián điệp hay phá hoại, họ mới mời viên Đại úy Trưởng chi tới thanh sát. Ban đầu, Thảo e ngại rằng nếu biết chàng là 1 linh mục và đoàn người vượt biển đều là Công Giáo, người Hồi giáo Mã Lai sẽ có ác cảm và ngược đãi; nhưng thái độ thân thiện bất ngờ của viên chỉ huy Cảnh sát đã thực sự làm mọi người sửng sốt.
Thảo cũng không quên được lời mấy bà ríu rít lúc được đón vào lều tạm trú:
-Thật có cha cùng đi chúng con được bao nhiêu điều lợi, chưa kể đến chuyện tiếng tăm ngoại ngữ, cả bọn chúng con đều như mù tịt.
Khi Thảo và Diệp lên đến văn phòng thì vị đại úy cùng với viên thiêu úy an ninh đã chờ sẵn tại bàn giấy. Với giọng điệu hòa nhã, vị chỉ huy trưởng lên tiếng:
-Làm sao ngài dám liều cùng với mấy chục người vượt biển trên chiếc thuyền nhỏ bé như thế, mà lại đi có 4 ngày đã tới đây? Thảo bình tĩnh:
-Thưa đại úy, chỉ vì mất tự do mà chúng tôi phải liều chết bỏ nước ra đi. Chúng tôi nghèo nên chỉ mua nổi chiếc thuyền đó. Còn chuyện đi mau lẹ và an toàn thì nhờ trời thương cho biển êm sóng lặng, lại bởi máy ghe không bị hư. Chính chúng tôi cũng chẳng dám tin chuyến đi lại may mắn đến thế.
-Ngài có thể bảo đảm các hành vi chính trị của mấy gia đình cùng đi này không?
Thảo cương quyết:
-Thưa tôi xin cam đoan họ đều là những nạn nhân của chẽ độ Cộng Sản, và thực sự muốn đi tìm tự do.
Vị đại úy nhìn chàng vào Thảo:
-Riêng ngài là linh mục Công giáo, có chi trở ngại với chính quyền mới mà phải ra đi?
-Các vị thừa biết, tôn giáo nói chung luôn là kẻ thù của Cộng Sản. Trường hợp tôi lại kẹt hơn nữa sau khi tôi thay đổi nơi làm việc. Họ tìm cớ bắt tôi trong chương trình triệt hạ Công giáo. Nếu không, tôi chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện bỏ quê hương ra đi như thế này.
Viên đại úy trầm ngâm 1 hồi rồi nói chậm rãi:
-Tôi có lời chia vui với ngài và cả nhóm cùng đi. Có thể đây là đoàn vượt biển may mắn nhất mà tôi được biết. Cách đây 2 tuần, có 1 nhóm khác đã tới đây, nhưng không được toàn vẹn, vì bị hải tặc Thái Lan tấn công vừa giết vừa bắt đi 1 số. Thuyền họ lớn hơn nhưng đã lênh đênh trên biển cả mấy tuần.
Thảo bàng hoàng nhìn qua Diệp, trong khi viên thiếu úy lên tiếng, dáng vẻ nghiêm nghị:
-Chúng tôi xin loan báo cho cả nhóm biết: Chiều nay tất cả sẽ được chở lên trại tạm cư trên thị xã Kota-Bharu, thủ phủ của tiểu bang này, cách đây không bao xa. Trại này được phủ Cao Ủy Liên Hiệp Quốc bảo trợ và lo tiến hành thủ tục đi định cư ở 1 nước thứ 3. Bổn phận của chúng tôi chỉ là điều tra và bảo trì an ninh. Cũng vì thế, sau giờ ăn sáng, chúng tôi yêu cầu từng gia đình một lần lượt lên đây khai chi tiết lý lịch và lăn tay đầy đủ. Chúng tôi mong ước được sự cộng tác chân thành của quý vị, và kêu gọi mọi người luôn tuân theo kỷ luật, kể cả ở đây và trên thị xã.
Lúc quay về lều trú, Diệp khẽ hỏi Thảo:
-Họ có làm khó dễ gì không thưa cha?
Thảo tươi cười:
-Nhờ Chúa thương, có lẽ mọi sự êm xuôi cả. Chắc họ tin bọn mình rồi. Nhưng vì bổn phận an ninh, họ phải làm thủ tục giấy tờ, kẻo lỡ có gì không hay sẽ bị khiển trách. Bây giờ tất cả lo ăn sáng, rồi từng gia đình sẽ lên văn phòng làm hồ sơ.
Vừa về ngang lều thì cả 2 đã thấy mấy nhân viên cảnh sát khệ nệ ôm bánh mì và sữa hộp tới. Bọn trẻ chạy ra reo mừng, mặc dù nét mặt đứa nào cũng còn như ngái ngủ và đầy vẻ ngỡ ngàng.
Thế là 1 ngày mới, một ngày hoàn toàn mới khởi sụ, với bữa ăn sáng đầu tiên chính thức là dân tị nạn. Bánh tự nhiên như thơm hơn và sữa cũng thấy ngọt hơn trên môi. Thế giới tự do đã không xua đuổi mình. Đường hy vọng đã thật sự ở trong tầm tay. Ai nấy đã không khỏi xúc động khi Thảo đọc lời kinh tạ ơn trước khi ăn. Đây là "man-na" mới mình được Chúa nuôi, như ngài đã nuôi dân Do Thái lưu lạc trên hoang địa xưa. Vời lòng trung thành và niềm biết ơn, phương trời nào mình tới cũng sẽ là miền Đất Hứa của tương lai. Ráng đừng làm mất đi những truyền thống đẹp của cha ông ngày cũ. Mình có quyền tin tưởng nhiều vào ngày mai, nhưng chớ quên những tháng năm cơ cực quá khứ, để luôn nhủ bảo mình và con cháu cái sứ mạng phải kiên tâm tiến thủ trên đời. Biết đâu một ngày nào đó sẽ có cơ hội trở lại làm đẹp quê hương.
Buổi sáng làm hồ sơ trên văn phòng đã hoàn tất tốt đẹp. Mọi người đều thấy như có 1 yếu tố nhiệm mầu linh thiêng nào đó ẩn hiện, khiến được cả chi cảnh sát dành cho trọn cảm tình. Một bữa ăn "hải sản" nữa được cung cấp đầy đủ vào khoảng xế trưa. Áo quần và vật dụng cá nhân đã được xếp gói gọn gàng. Chiếc ghe máy đã được ty cảnh sát nhận bán giùm cho dân chài địa phương. Mọi người đồng ý xin trao lại món tiền cho vợ chồng Diệp, nhưng người cựu thư ký giáo xứ Thiên Việt đã ân cần chia hết cho cả 3 gia đình, nhiều ít tùy theo đầu người. Niềm yêu thương dâng lên tràn ngập. Đã cùng chia sẻ những phút giây lo sợ, lẽ nào lại không tiếp tục sẻ chia những tháng ngày hy vọng hân hoan.
Rồi phút rời chi cảnh sát Tumpat cũng đến. Mới có một ngày mà đã như luyến lưu nhớ tiếc Nụ cười đôn hậu của vị đại úy trưởng chi nổi bật trên khuôn mặt xương xương cùng làn da bánh mật bản xứ. Chắc chẳng bao giờ quên được. Ôi, những bàn tay vẫy chào. Những lời lời ân cần cầu chúc. Những ánh mắt thương mến trông theo. Ôi dân tộc Mã Lai hiền hậu, chúng tôi ngàn năm ghi nhớ. Quý vị đã rộng lượng và thương cảm cho đoàn người bãi hạnh vất vưởng tha phương. Tình nhân loại đã ngời sáng tại phần đất này của thế giới.
Chả mấy chốc, chiếc xe buýt nhà binh đã đổ đoàn người xuống trại tạm cư, tọa lạc tại ngoại ô thị trấn. Thủ tục nhập trại diễn ra mau lẹ vì cảnh sát đã chuẩn bị sẵn mọi giấy tờ. Thảo được vị trưởng trại người Mã Lai cho biết trại tạm cư này mới được thành lập khoảng 6 tháng nay và hiện đã có gần 200 người chia nhau ở trong 3 dãy nhà tôn do hội Hồng Thập Tự dựng lên. Theo chương trình dự liệu, nếu dân tị nạn ghé thuyền vào vùng này đông, những người đến trước hoặc những thành phần phải chờ lâu tại Mã Lai sẽ được đưa ra trại tiếp cư tổ chức quy mô ở đảo Bi-Đông nằm về phía Nam. Sau đó vị trại trưởng giới thiệu với cả nhóm 1 người đàn ông Việt Nam còn trẻ, dáng dấp trí thức, mà ông gọi là Đại Diện, được cả trại bầu lên để điều hành những việc thường nhật nội bộ. Thế là trong khoảnh khắc, nhóm người mới đến được phân phối chỗ ở, rồi bắt đầu được phát gạo ăn, đồ hộp, rau cỏ và 1 phần than củi nấu bếp. Bát đũa nồi niêu thì tự túc và có thể ra mua tại quán tạp hóa ngoài cổng. Một số người đã nhập trại trước xúm lại thăm hỏi và chỉ dẫn.
Bỗng Diệp ghé tai nói nhỏ với vị "Đại Diện", tay chỉ về hướng Thảo:
-Tôi xin được giới thiệu với ông Đại Diện đó là linh mục Nguyễn Đức Thảo cùng đi với chúng tôi từ giáo xứ Thiên Việt Saigon.
Thế là ông này vội vã chạy lại bên Thảo, lễ độ lên tiếng:
-Xin chào cha, ông bạn kia vừa mới cho con biết. Hân hạnh được đón tiếp và mừng cha đến Mã Lai bằng an.
-Cám ơn ông Đại Diện. Chúng tôi mong được ông Đại Diện chỉ dẫn trong lúc còn bỡ ngỡ.
-Cha cứ gọi tên con. Con là Hoàng. Con cũng công giáo cha ạ.
Thảo lộ niềm vui:
-May mắn quá. Chúng mình mừng nhau thoát ách Cộng Sản vô thần. Không biết ông Đại Diện, à ông Hoàng, có đem được cả gia đình đi không?
-Nhà con và 3 cháu còn ở nhà cha ạ. Con vừa đi học tập về được 5 tháng, tài chánh gia đình kiệt quệ quá, chỉ đi được mình con.
-Tội nghiệp! Nhưng tôi hy vọng rồi sẽ tìm được cách để cả nhà cùng đi. À mà gia đình còn ở Saigon hay tỉnh nào?
-Ở Mỹ Tho cha ạ. Con gốc dân Tiền Giang, mò mẫm vào học Quốc Gia Hành Chánh rồi làm phó quận trưởng Bến Tranh được 2 năm thì mất nước. Năm nay con đúng 33 tuổi.
-Gần 3 năm học tập, chắc sức khỏe ông Hoàng bị suy giảm đi nhiều. Hẳn trước không gầy như hôm nay?
-Chúa cho còn sống sót là may cho con lắm rồi. Con hy vọng dần dà sẽ khá trở lại….
Thảo thân mật:
-Ráng đừng lo nghĩ quá về vợ con, ông Hoàng ạ. Nhớ thương thì làm sao khỏi được, nhưng tin cậy vào Chúa vẫn là phương thức tốt nhất.
Hoàng gật gù:
-Vâng, con vẩn ráng nhủ mình như thế. À, còn bên gia quyến của cha, có ai đi được không?
-Ông bà cụ tôi đã mãn phần cả rồi. Còn lại mấy bà chị đang ở cả trên vùng Đà Lạt. Chắc chẳng ai dám nghĩ đến chuyện ra đi. Riêng phần tôi, ra đi cũng bất ngờ như sự đe dọa tính mạng từ phía chính quyền mới. Bỗng dưng có người trong Giáo xứ vào mời cùng đi, thế là tôi lên đường.
-Những Linh Mục trẻ như cha khó mà yên thân được đâu. Trừ phi hợp tác với họ, hay chịu ngồi yên một góc, chứ còn....
Thào ngó lơ đãng ra phiá cổng một lúc, rồi hỏi:
-Nhóm ông Hoàng đi có đông không? Mọi chuyện may mắn chứ?
-Gần 70 người cha ạ. Sóng bão dữ quá nên hơn 10 ngày mới tới được đây. Được cái mọi người an toàn cả.
-Sáng nay chi cảnh sát Tumpat cho chúng tôi biết 2 tuần trước đây có nhóm nào đó gặp xui xẻo lắm. Đã khổ sở vì phong ba mà còn khốn đốn vì hải tặc nữa.
-Vâng đúng đấy. Nhóm đó tội nghiệp lắm. Họ đang ở căn số 3 đằng kia. Nay mai cha có dịp hỏi chuyện sẽ thấy, họ vẫn như còn đang sống với cơn ác mộng hôm nào......
Thảo thở dài:
-Vậy ra Chúa đã thương chúng tôi khác thường. Chỉ có 4 ngày đã tới bến ông Hoàng ạ. Mà chiếc ghe chỉ nhỏ xíu à!
Hoàng mỉm cười:
-Có cha trên ghe, Chúa nào nỡ để...
Thảo vội ngắt:
-Nếu quả thực mà tôi là ông thánh sống, thì tôi cũng chẳng mất công mất sức tìm che giấu sự thật. Nhưng đường hoàn thiện còn dài lắm ông Hoàng ạ.
Rồi chàng đổi ngay đề tài:
-Từ ngày có trại này, đã ai được đi định cư tại nước thứ ba nào chưa?
-Mới thấy 3 gia đình, bởi có thân nhân trực tiếp ở Pháp và Mỹ cha ạ.
-Riêng ông Hoàng thì sao?
-Nhóm chúng con đã tới được hơn 4 tháng. Nhưng chưa ai được gọi, mặc dù tất cả đã được phỏng vấn và hầu hết được chấp thuận. Hy vọng tuần tới một hai hộ sẽ có danh sách lên đường. Riêng con, vì chỉ có bạn bè nên hơi lâu. Con chỉ mong không bị chuyển ra Bi-Đông. Ngoài đảo nghe nói xô bồ lắm......
Thảo đưa 2 tay lên gãi cằm:
-Phái đoàn các nước có thường ghé đây không?
-Mỹ thì tới vài tuần 1 lần. Còn Pháp, Úc hay Canada lâu lâu mới lại ghé.
-Đa số dân mình ưng đi đâu?
Hoàng nói ngay:
-Họ thường xin đi Mỹ cha ạ. Một số nhỏ muốn qua Úc làm nông trại. Hình như chính phủ Mỹ nhường ưu tiên cho các chính phủ khác, nên họ cứ lọc lựa những thành phần ưu tú. Mới đây có ông Bác Sĩ Hiền trong trại đã được chấp thuận qua Canada.
Rồi quay qua Thảo:
-Còn riêng cha thế nào?
Thảo cười:
-Tôi cũng như ông Hoàng, chỉ có vài người bạn. Tôi định nhờ 1 linh mục ở California lo giùm hồ sơ bảo lãnh. Hy vọng một giáo phận Mỹ nào đó nhận đỡ đầu thì giấy tờ sẽ dễ dàng.
-Mấy gia đình cùng đi ra sao?
-Chắc cũng chỉ có bà con xa xa thôi. Có thể vài người sẽ phải xin đi theo tiêu chuẩn nhân đạo.
Hoàng biện bạch:
-Nếu được 1 nhà thờ hay hội đoàn nào bảo trợ thì cũng không đến nỗi phải vào sổ di chuyển ra đảo chờ đợi.
Thảo nhìn về phiá mấy dãy nhà ở:
-Còn chuyện ở trại này thì sao? Họ cho mình dễ thở chứ? Tôi tin có ông Hoàng điều hành thì đâu phải ra đó.
-Cảm ơn cha, cho đến hôm nay, coi bộ mọi sự tương đối khá. Phần nhờ người Mã còn có thiện cảm và tin tưởng mình. Phần nữa nhờ số vào trại còn ít. Sợ rằng nay mai lên tới 5,7 trăm thì việc bảo nhau sẽ khó khăn hơn. Thỉnh thoảng cũng vẫn có những màn cãi lộn đánh nhau đấy cha ạ.
-Ông trại trưởng người Mã có tốt với mình không?
Hoàng gật gù:
-Cũng dễ chịu cha ạ. Ông ấy là người của cảnh sát, làm việc ăn lương của Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc cùng với anh phụ tá, có lẽ hôm nay không tới.
Thảo nhìn Hoàng:
-Còn lễ lạy chủ nhật ra sao?
-Mỗi chủ nhật họ cho phép cha Surmon thừa sai người Pháp vào làm lễ cho anh chị em công giáo. Còn bên Phật giáo chưa thấy ai đứng ra xin, có lẽ họ cũng đoán bên này chỉ có 1 số chùa Tàu. Cuối tuần cha sẽ gặp cha Surmon, chắc ngài mừng lắm.
-Thánh lễ làm ngoài trời?
-Bàn thờ kê trong văn phòng cha ạ. Một số phải đứng ở ngoài trời xem lễ.
Ngừng 1 lát, Hoàng tiếp:
-À con đề nghị cha nên nghỉ đêm ở trên văn phòng. Bên góc trái chúng con có ngăn 1 khoảng để kê đủ chiếc giường vải, phòng hờ khi cha Surmon hoặc ông trại trưởng muốn ở lại qua đêm, nhưng chưa thấy ai dùng bao giờ. Để con báo cáo cho ông trại trưởng biết, chắc chắn được chấp thuận liền cha ạ.
Thảo ngần ngại:
-Tôi nghĩ không nên đòi hỏi điều gì khác thường, kẻo họ không hiểu, rồi đâm phiền thêm. Mình là dân tị nạn mà!
Hoàng vung tay:
-Con bảo đảm với cha không có chi phiền phức cả. Cứ để mặc con lo chuyện này. Chẳng lẽ làm đại diện mà không giúp cho cha 1 việc nhỏ bé này hay sao?
Thế là mọi chuyện đâu vào đó, y như đã được chuẩn bị từ trước. Những hên may nối tiếp khiến chính Thảo cũng phải sững sờ khó hiểu. Nhưng càng lắm ưu tiên và nhiều may mắn, Thảo càng cảm thấy ái ngại và cơ hồ mắc cở ngay với cả bản thân chàng. Trong tâm tư Thảo nào đã nguôi được cái mặc cảm chạy trốn! Chuyện tình cảm trái ngang ngày nào vẫn u uẩn trong hồn. Làm sao nghĩ nổi rằng mình xứng đáng với những ân huệ được liên tục dành cho! Biết nói chi, biết làm gì để bù đắp, để tạ ơn trời! Văng vẳng đâu đây lời tiên tri của vị Thày Chí Thánh: Thày bảo thật các con, những kẻ từ bỏ cửa nhà, cha mẹ, anh em vì danh Thày, sẽ được lại gặp trăm. Chúa ơi, con đang theo ngài đây, nhưng con chỉ có cái can đảm nửa mùa, cái hăng nồng nhất thời và cái quyết tâm yếu ớt. Chẳng biết lúc nào đây con sẽ thối lui để trả lại " bẩy chức thánh" cho Chúa! Con xin bắt chước những vị môn đệ tiên khởi để khấn nguyện rằng: Lúc này đây con đang tin Chúa, nhưng lúc nào cũng cần được Chúa tăng cường lòng tin cho con.
Và rồi cuộc sống trong trại tạm cư đã lại bắt đầu tốt đẹp với 1 đêm nữa Thảo ngủ ngon giấc. Hoàng đã ngồi lại chuyện vãn với chàng trên văn phòng cho tới gần nửa đêm. 2 người tỏ ra rất tương đắc. Thảo đã có dịp hỏi nhiều về miền đất Mỹ Tho, nơi chàng đã có thời trọ học cả mấy năm trời. Hoàng hứa, như điều Phán mong hôm nào, rồi mai dù được bảo trợ tới bất cứ đâu, cũng cố tìm về sống gần nơi Thảo .
Hoàng đã hiện diện như một người bạn thân mới, để Thảo có cơ hội tâm sự hàn huyên trong những ngày chờ đợi.
Rồi cùng với sự sắp xếp của Hoàng, cuộc sống của trại tị nạn đã diễn tiến tốt đẹp thoải mái với Thảo.
Chàng đã thay cha Surmon để phụ trách lễ lạy Kinh hạt cho nhóm dân Công Giáo.
Gia đình Diệp, Bá cũng như Phán đã là những người cộng sự đắc lực cho cả chàng cũng như Hoàng.
Hầu hết mọi người đều mến thương, trọng vọng Thảo. Một số đã phải nghẹn ngào khi phải chia tay chàng lên đường định cư. Đã có lúc chàng đinh ninh rằng, giả thử không có chuyện phân ly, nhất định chàng sẽ thuyết phục được những người không công giáo thay đổi lập trường tín ngưỡng.
Sóng gió, đe dọa và hiểm nguy đã qua. Bây giờ chỉ còn chờ đợi ngày ổn định ở 1 phương trời tự do tiến bộ nào đó. Gạo nước được cung cấp đầy đủ mỗi bữa. Ngày tháng chỉ còn là nghỉ ngơi và rong chơi...
Nhưng Thảo đã sớm nhận ra cái cảnh nhàn hạ trong trại tị nạn đã thực sự bắt đầu là 1 thứ cực hình mới cho chàng. Thảo cũng nhìn thấy cái tâm trạng đó nơi một số đông bà con nơi đây. Không có gì để làm, và rồi cứ ngồi đó mà trông ngóng tin tức thân nhân bạn bè, chờ đợi từng ngày bóng dáng các phái đoàn ngoại quốc tới phỏng vấn, mong mỏi mỗi phút giây về kết quả định đoạt tương lai của mình và cả gia đình. Người ta đã khổ sở vì thời gian quá chậm, để rồi khung trời mỗi ngày mỗi như nhỏ lại, cuộc sống mỗi ngày mỗi nhàm chán ra. Vì lý do an ninh, mỗi gia đình chỉ được cử 1 người lên phố mua sắm những thứ cần 2 tuần 1 lần, dưới sự hộ tống của cảnh sát. Mọi sinh hoạt đều diễn ra trong phạm vi hạn hẹp của hàng rào trại tạm cư. Ai nấy cảm thấy ngứa ngáy chân tay, bởi lẽ sau những ngày thiếu tự do nơi quê nhà, họ mong ước được bay nhẩy vẫy vùng. Chẳng thà bắt họ làm việc, tạo cho họ cơ hội phải bận bịu, phải tính toán, phải ganh đua. Đàng này, mấy vòng kẽm gai quanh trại đã vô tình đóng khung cả trí óc tâm tư cho tê cho liệt toàn con người. Thêm vào đó là cái oi nồng của xứ Mã Lai gần Xích Đạo càng tạo thêm ngột ngạt căng thẳng.
Với Thảo, chàng không ngờ rằng cái mặc cảm lưu đầy đã xâm chiếm hồn mình mau lẹ đến thế. Như 1 sớm 1 chiều, quê hương Việt Nạm lại ẩn hiện giống ước mơ huyền diệu nhất. Cái hoả ngục bỏ lại bỗng trở thành cảnh thiên đàng đã mất. Rời xa đất mẹ rồi, có hy vọng đi tới vùng trời văn minh nào đi nữa, cũng chỉ là đi vào cõi tan tác lãng quên. Rồi mai đây, có may mắn thu tích được bạc vàng nhiều đến mấy, anh cũng chỉ suốt đời là một tên Do Thái lang thang và điệu buồn đã thực sự bắt đầu cho khúc hát đời anh.
Chẳng ngại chi tháng ngày dài đợi chờ không định hạn, nhưng đằng sau thời gian chờ đợi đó nào thấy chi lôi cuốn hấp dẫn đâu! Tâm tình tôn giáo vẫn còn mạnh, niềm tin siêu nhiên vẫn còn đó, tiếng gọi phục vụ vẫn vời vợi nồng nàn, nhưng là con người, Thảo không sao thoát khỏi những tình cảm tự nhiên của một kẻ xa nhà nhớ quê. Dầu cố quên hay gắng vượt qua những ý nghĩ chán chường viển vông, Thảo vẫn không thoát khỏi cái hình ảnh của 1 Hòn Vọng Phu biết chuyển động: Ở mọi góc trời, người ta chằng bao giờ hết ngóng về vùng quê mẹ mù xa, để chỉ còn nhớ thương, than khóc.
Thảo đã đi vào cái thế giới u uẩn triền miên của tâm tư như thế trong thinh lặng, âm thầm. Những buổi một mình ngồi nhìn mây lãng đãng trôi ra phía biển Đông, chàng lại rạo rực niềm ước mơ được biến thành Mây, mặc dù lúc nào chàng cũng ý thức thân phận mình chẳng khác chi làn mây cuối phương trời.
Người đến rồi kẻ đi. Luân phiên nhau cái trò tan hợp. Mừng đón chưa xong thì đã đưa, đã tan. Nào khác chi những cơn sóng vào ra bờ cát cô liêu. Cuộc đời chỉ là cuộc đuổi bắt không ngừng. Hết mong mỏi này rồi lại nối tiếp bằng đợi chờ khác. Đời vô nghĩa nếu hết hy vọng và ước mơ, nhưng ngóng trông hoài rồi cũng chỉ có thế. Thà làm hạt cát vô tri, để ngàn năm nằm đó, yên phận một kiếp hiện hữu âm thầm. Đừng làm cỏ cây, vì cây cỏ còn phải nhìn 4 mùa thay đổi và vẫn phải đổi thay theo nắng mưa, thời tiết.
Đời ở trại tị nạn là thế. Trong tâm tư lúc nào cũng có một cái gì thừa, một cái chi thiếu. Những lúc hoàng hôn chiều xuống chậm theo ánh dương cuối trời tây, hay những buổi ngắm trăng lên sau hàng cây thưa phía cổng trại, đáng lẽ phải gợi cho Thảo nhiều hứng thú, nhưng đàng này chỉ gieo thêm nỗi xa vắng hoang vu. Bầu trời xanh biếc hay xám đục cũng chỉ vọng vang khúc hát lặng lẽ buồn rầu, bởi luôn được in hình ảnh của giấc mơ nào đó không bao giờ thành tựu. Những ngày nắng đẹp ở đây cũng chỉ khơi nổi cho chàng những cảm giác của một chiều mưa gió ảm đạm của Đà Lạt thuở nào. Cái vui, cái hăng hái nào rồi cũng dần đưa về một ngõ cụt, một vực sâu hay biển thẳm. Mỗi lần nghe gió vi vu thổi bên ngoài, Thảo thường thấy hiện lên trong đầu óc hình ảnh đời chàng như 1 chuyến tầu tốc hành chở nặng những hoan lạc, đau buồn và hoài niệm, lao vút vào khoảng hư vô. Đời mình đã có bao nhiêu năm biết kết mơ dệt mộng rồi? Không biết nữa. Đếm làm chi cho thêm hoang vắng tâm tư!
Nhưng trong 1 phút nhớ về quá khứ, Thảo đã bàng hoàng nhận ra rằng đời chàng đã thay đổi ghê gớm từ ngày gặp Nga. Nét hồn nhiên bình thản đã vô tình nhường cho cho những khắc khoải ưu tư xa vời. Nga đã là căn nguyên để chàng ngày đêm kiếm tìm một thứ vô hình thăm thẳm nào đó không thể nói ra, không bao giờ đụng chạm tới được. Nga đã đến như 1 hòn sỏi được ném xuống mặt hồ đời chàng, từ bao năm luôn phẳng lặng an bình. Những giao động có lẽ lúc này đã lặng tắt trên mặt nước, nhưng những làn âm ba vẫn vang dội dưới đáy hồ. Người ta hay ví tình yêu với loài chim, cũng có cánh để có thể bay đi. Nhưng chim bay thì mất hút cuối trời, còn tình yêu chỉ chết khi ta hết còn biết tưởng nghĩ, ước mơ.
Thảo bỗng dưng nhớ lại chính Nga đã dạy cho chàng biết thế nào là cô đơn trên đời. Như một mũi thuốc chích, tình yêu đã tràn lan vào huyết mạch để Thảo trở nên trưởng thành với những sầu tư giăng mắc, những mơ ước ngập hồn. Những năm tháng lạc quan và tin tưởng đã biến thành tra hỏi, hoài nghi. Tình yêu đã cho Thảo lần đầu hiểu về cuộc đời phi lý và mâu thuẫn. Từ ngày gặp Nga, chàng mới lần lượt nhận ra nhiều bộ mặt khác nhau của cuộc sống, và cũng từ đó nhiều lần chàng đã phải giữ tư thế của một diễn viên sân khấu, nói cười khác với cõi lòng bên trong.
Nhưng, oái ăm thay, càng thấy cuộc đời phi lý, càng nhận ra tình yêu muôn mặt hư ảo, người ta lại càng ý thức mình không thể thoát ra khỏi cái vòng cương tỏa ấy. Như chàng Atlas trong thần thoại Hy Lạp bị trừng phạt ngàn năm ôm vác cả bầu trời vũ trụ trên vại. Làm người đồng nghĩa với sự trừng phạt phải sống, phải chứng kiến cái nghịch lý thương đau, khởi nguyên ngay từ chính bản thân mình. Mà một khi tuổi ngây thơ đã tan mất vì một lần trưởng thành với tình yêu, Thảo đã thấy rõ đời mình bắt đầu chao động như chiẽc lá bay theo cơn gió cuốn đi. Muốn đứng vững lại, phải gồng mình để trở thành một nan xe, một cánh chong chóng biết quay tít không ngừng. Không còn thời giờ để ngắm nhìn đường đi trước mặt. Chẳng còn đầu óc nào mà hoạch định hay trù tính cho cuộc sống tương lai.
Thế là cả ở trước mặt lẫn sau lưng, thời gian cũng như không gian đã trở nên câm nín, hững hờ. Cánh cửa nào cũng đóng chặt để chỉ còn biết quay quắt trong 1 vũng tối chật hẹp hoang vu. Mảnh hình hài xô lệch của chính mình đã ra như bất động tê cứng, và Thảo buộc lòng phải cố tìm ra một chân dung khác, một tướng mạo khác, nhưng cũng thuộc về chàng, cũng là 1 phần tâm tư, 1 phần cuộc sõng nào đó của chàng trước kia, để chàng có thể nhìn vào như chiếc gương phản chiếu lại chính mình, mà đối thoại, mà đổi trao, mà thấy được mình là ai, là thế nào.
Con đường tâm tư xoáy ốc nhiệm mầu ấy đã gợi lại hình ảnh Nga ẩn hiện trong Thảo mỗi khi nghe tiếng chim kêu ngoài hiên hay nhìn nắng rọi chói chan trên những mái tôn chạy dài ngang tầm mắt. Hoàng ở gần bên, nhưng Hoàng mãi mãi chỉ là Hoàng, là một thế giới khác biệt, dù rất quen thân. Nga không hiện diện, Nga sẽ chẳng bao giờ là của tôi, nhưng Nga và tôi đã đồng hóa, dù chỉ bằng 1 lần ngắn ngủi trao lời thương yêu. Hãy biến nàng thành 1 nhân vật vô hình, một vị thần hộ mạng nào đó. Không cần nói. Chẳng phải nghe. Cứ luẩn khuất đâu đây là đủ rồi.Nàng hãy thức khi tôi ngủ, và ngủ thật say khi tôi thức. Chỉ cần nàng có mặt, lúc nào cũng ở đó, không nhất thiết phải là thế này thế nọ, mà mình cũng chẳng nên chờ mong gì ở nhau. Nga có đồng ý không?
Tiếng kẻng báo giờ thinh lặng vang lên 3 tiếng. Một đêm nữa lại bắt đầu cho chuỗi ngày thừa thãi trong trại tị nạn buồn thiu. Dẫu có linh cảm rằng chả mấy nữa mình sẽ được đưa lên thủ đô để đợi chuyến bay qua Mỹ, nhưng Thảo vẫn chưa 1 lần nhận thấy đêm trở thành ngắn hơn. Bây giờ thì chờ 1 tuần nữa hay đợi thêm vài năm cũng thế thôi.
Chàng mở ngăn kéo bàn lôi ra tập sách Nguyện. Hàng chữ in đậm của mấy bài thánh vịnh như nhẩy múa trước mặt Thảo. Chàng cố đọc nốt bài thi ca Jeremia: "Ta sẽ biến sầu thương thành hoan hỉ, đổi buồn phiền nên an ủi mừng vui".
Rồi bỗng thấy mắt mờ lệ, Thảo gục đầu xúc động thổn thức.
Ngoài kia gió bắt đầu gào thét từng cơn. |
|