|
DƯ THỪA CAN ĐẢM
"Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tinh yêu của chúa Ki-tô?
Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bằt bớ, gươm giáo" (Rm 8,35)
Cái khốn khổ của Si-mon Hòa phải chịu kể từ khi bị bắt vì đức tin cũng tương tự như thế: Hơn 20 lần bị tra khảo rất dữ dội. Lúc thì bằng đòn vọt, khi thì bằng kìm lạnh, lúc khác thì bằng kẹp nung lửa... Khiến da thịt ông bị thối rữa vì các viết thương đầy mủ máu. Rồi trách nhiệm tình thương đối với gia đình: người vợ và 12 người con, có đứa mới sinh cách vài tháng, chưa được diễm phúc thấy mặt cha một lần.
Thế nhưng ngay trong trường hợp này, chân lý của những vị tử đạo luôn đúng: "Đối với các ngài, đau thương không phải là dấu chỉ thất bại. Đau thương cũng không phải mục đích, nhưng đau thương chính là thử thách của chứng nhân phải vượt qua, để có thể đạt đươc hạnh phúc vĩnh cửu", và thái độ của ông Si-mon Hòa cũng như thái độ của các vị tử đạo vẫn là:
"Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thằng nhờ đấng yêu mếm chúng ta" ( Rm 8,37)
Phan Đắc Hòa sinh trong một gia đình ngoại giáo tại làng Mai Vĩnh, xã Nông Thôn, tỉnh Thừa Thiên, năm 1774. Thưở bé, cậu tên là Thu, cha mất sớm, mẹ đưa chị em Hòa đến tá túc và làm công ở làng Lương Kim, sau đó đến giúp một gia đình công giáo ở làng Nhu Lý, tỉnh Quảng Trị.
Sống với người công giáo, nhìn thấy những gương sáng và được nghe nói về điều cao đẹp về đạo mới này, cậu Hòa đem lòng cảm mến và xin phép me cho mình theo học giáo lý và gia nhập đạo. Khi ấy cậu chỉ là một thiếu niên mới có 12 tuổi, cậu đã chọn thánh SIMON làm bổn mạng. Yêu mến Chúa Kitô, cậu bé không dừng ở đó, mà còn muốm theo sát, phục vụ Chúa Kitô trong đời tu trì. Cậu đã được vào chủng viện một thời gian, nhưng qua các bề trên Si-mon Hòa nhận ra ý Chúa muốn cậu sống và làm chứng tá về Ngài ngay giữa lòng đời.
Tuy không đạt được ước mơ, Si-mon Hòa thường xuyên liên lạc với chủng viện và các bề trên. Sau khi lập gia đình trở thành cha của 12 người con, Si-mon Hòa cố gắng chu toàn trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, xứng đáng là tấm gương sáng tiêu biểu cho mọi gia đình trong làng. Sống đời giáo dân, ông Hòa hành nghề y sĩ: "Lương y như từ mẫu''. Nhiều người được ông chữa lành bệnh, nên dân chúng đồn đại đến với ông rất đông. Nhờ đó, ông có nhiều cơ hội gặp gỡ người khó nghèo. Nếu dư giả chút ít, ông liền đem đóng góp vào công việc từ thiện, xây cất thánh đường....
Với đời sống đạo đức, ông lang Hòa được cử làm trùm họ. Trước mặt mọi người, ông đã thi hành chức vụ tốt đẹp: Ai ăn ở bất xứng, biếng trễ, ông tìm cách sửa chữa, hoặc răn đe dạy dỗ, hoặc giải thích khuyên can. Ai cờ bạc riệu chè, ông nghiêm khắc sửa dạy. Thế nên nhiều người yêu mến chứ không thù ghét gì ông, bởi vì họ biết ông làm thế là vì yêu mến họ và vì trách nhiệm chứ không phải vì tư lợi. Ngoài ra, ông Si-mon Hòa còn sẵn sàng bênh vực những người gìa nua tuổi tác, yếu đuối, các cô nhi quả phụ. Ông thấy thấm thía ý nghĩa phúc thật Tám Mối, nhận ra hình ảnh Chúa Ki-tô nơi người khác, nhất là những người nghèo khó. Có lần ông đích thân cúi xuống vực một người nằm liệt sức bên đường vác lên vai, đưa đến trảm canh, rồi cho người đem cơm nước để nuôi người bất hạnh
Khi vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo, ông trùm lang Hòa có dịp bày tỏ lòng can đảm của mình: Ông sẵn sàng cho linh mục ngoại quốc ẩn náu trong nhà, mặc dù biết việc chứa chấp này la đe dọa đến tính mạng mình cũng như gia đình. Đức Cha Cu-ê-nô Thể cũng trọ một thời gian ở nhà ông. Ông nhiệt thành lo liệu sắp xếp cho các linh mục nơi trú ẩn, nếu nhà mình không ổn, ông gửi gắm các cha nơi ở tương đối an tâm hơn. Tối ngày 13/4/1840, khi đang trên thuyền đưa Đức Cha Đơ-la-mốt Y đến làng Hoàng Ninh, thuyền ông bị các quan lính phát hiện đuổi theo. Quân lính bắt ông và Đức Cha Y đưa về huyện Dương Xuân, rồi giải về Quảng Trị giam hai tháng và cuối cùng đưa ra Hếu. |
|