|
SỨ MỆNH CỦA HỘI ÐỒNG MỤC VỤ
Từ khi được thành lập vào năm 1947 cho đến năm 1983, với những biến chuyển thăng trầm, Giáo xứ Việt nam Paris là một thực thể tôn giáo việt nam ở Paris. Trong suốt thời gian hiện hữu trên 40 năm ấy, Giáo xứ luôn luôn có một Ban Giám Đốc (BGĐ), đại diện giáo quyền để giúp đỡ giáo dân về mặt tinh thần và tôn giáo. Tất cả mọi hoạt động đều do khả năng và nhiệt tình của Ban Giám Đốc, với sự cộng tác riêng rẽ của một số giáo dân, hay của một vài hội đoàn, chứ chưa hề bao giờ được thống nhất và điều hợp theo một qui chế hoặc một tổ chức chung. Nhu cầu cần có một Hội Đồng Mục Vụ (HĐMV), do đó, là một điều cần thiết. Nhưng hoàn cảnh đặc biệt của Ba-lê, vì là trung tâm văn hóa, tôn giáo và chính trị quan trọng, vì có nhiều khuynh hướng đối chọi nhau, việc tạo lập một Hội Đồng Mục Vụ vẫn chỉ là một ước mơ. Đã có nhiều lần, những Ban Giám Đốc tiên nhiệm đã toan tính lập Hội Đồng Mục Vụ bao gồm linh mục và giáo dân, nhưng chưa lần nào, những toan tính tốt đẹp ấy đã được thể hiện kết quả, bởi có quá nhiều khó khăn.
Nhưng những khó khăn này, nhờ ơn Chúa và với sự chuẩn bị cũng như đóng góp một cách tích cực và có phương pháp của Ban Giám Đốc cũng như của Cộng Đoàn, Cộng Đoàn công giáo việt nam Paris đã khắc phục được, và kể từ ngày 30.10.1983, một Hội Đồng Mục Vụ, một Ban Thường Vụ (BTV) của Hội Đồng Mục Vụ và một Ban Cố Vấn (BCV) đã chính thức được các đại diện các đơn Vị Mục Vụ (ĐVMV) gồm đại diện của các Hội Đoàn Mục Vụ và đại diện của các Địa Điểm Mục Vụ thành lập. Rồi ngày 11/12/1983, giáo quyền địa phương, là Tòa Tổng Giám Mục Ba-Lê đã chính thức công nhận Hội Đồng Mục Vụ, Ban Thường Vụ và Ban Cố Vấn, qua sự hiện diện và chúc lành của Đức Cha Michel COLONI, phụ tá tổng giám mục Ba-lê, đặc trách Ngoại Kiều Vụ.
Sứ mệnh của Hội Đồng Mục Vụ được nội quy xác định một cách vắn tắt rằng : ‘Hội Đồng Mục Vụ là một cơ quan gồm những giáo dân được tuyển chọn để tích cực cộng tác với Ban Giám Đốc Giáo Xứ trong việc xây dựng cộng đoàn về các phạm vi : tôn giáo, văn hoá, xã hội, tài chính’.
1. TIẾN TRÌNH THÀNH LẬP HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
Tổ chức được HĐMV là kết tinh của nhiều cố gắng và thiện chí. Những cố gắng ấy đã trải qua ba chặng đường, cũng là ba giai đoạn trong quá trình của HĐMV : giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn phôi thai và giai đoạn sinh hoạt chính thức đầu tiên.
1.1. GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
Việc chuẩn bị có thể là chuẩn bị xa, có thể là chuẩn bị gần. Chuẩn bị xa thì chắc chắn là HĐMV hôm nay đã được chuẩn bị từ ngày cộng đoàn Việt Nam được thành lập tại Ba lê, do những việc mà cộng đoàn và các Ban Giám Đốc (BGĐ) tiền nhiệm đã thực hiện. Chuẩn bị gần thì chắc chắn là từ ngày cha Mai Đức Vinh được bổ nhiệm làm gíám đốc giáo xứ năm 1980 và do những hoạt động của BGĐ vào lúc đó, trong đó, sinh hoạt của các nhóm công giáo tiến hành đóng một vai trò không nhỏ.
Các BGĐ tiền nhiệm chẳng những đã góp phần chuẩn bị thành lập, mà một số hiện còn cộng tác với BTV của HĐMV hiện nay. Tôi có ý nói đến cha Trần Thanh Giản, một trong những khuôn mặt của các cha cựu giám đốc. Trong những năm 80, ngài vẫn hàng tháng đi họp với BTV của HĐMV mới thành lập, với tính cách là cố vấn và vẫn thường xuyên tích cực góp sức vào nhiều hoạt động khác. Cha Toán cũng vậy. Còn nói đến việc chuẩn bị thì công lao của các BGĐ tiên nhiệm là việc không thể chối cãi. Không kể việc duy trì và phát triển Đoàn Sinh Viên Công Giáo, Hội Các Bà Mẹ Công Giáo, Hội Đạo Binh Đức Mẹ,.. ., một vài vị giám đốc tiên nhiệm đã rõ rệt muốn lập HĐMV. Năm 1977, cha Trương Đình Hoè đã triệu tập một phiên họp Trí Thức Công Giáo để bàn về vấn đề này. Trước đó, cha Toán và sau đó, cha Hoàng cũng đã có những ý định tương tự.
Nhưng cha Vinh mới thực là người đã trực tiếp chuẩn bị thiết lập HĐMV. Nếu trí nhớ tôi có thể tin được thì vào những năm 1979, 1980, cha Vinh đã nói truyện với tôi về vấn đề này. Lúc vừa nhận trách nhiệm giám đốc, hai vấn đề mà cha Vinh đã thông cảm với tôi và chắc chắn với nhiều người khác nữa, là làm sao để cho cộng đoàn được có tổ chức hơn, nói khác đi, làm sao thiết lập được HĐMV và làm sao tạo cho cộng đoàn một cơ sở thích hợp hơn. Tôi nhớ, lúc đó chúng tôi đàm đạo nhiều về những căn bản thần học, pháp lý, pháp lý đời cũng như pháp lý đạo, của HĐMV. Có lẽ có hai lý do khiến chúng tôi đề cập nhiều về vấn đề này. Thứ nhất vì đó là một vấn đề rất được cha Vinh lưu ý. Một trong hai luận án tiến sĩ mà cha đã đệ trình tại Roma là luận án ‘Thần học mục vụ’. Luận án này đề cập đến ‘Ban hành giáo tại các họ đạo ở Việt Nam’. Lý do thứ hai vì đó là đề tài thời sự công giáo cho những năm 79, 80. Tôi nhớ lúc đó đã đọc một số tài liệu của Đức Thánh Cha về vấn đề HĐMV này.
Ngoài sự đóng góp của các ban giám đốc tiên nhiệm, sự góp phần của các Hội Đoàn Công Giáo Tiến Hành vào việc thành lập Hội Đồng mục vụ cũng thật là quan trọng. Cái khéo của cha Vinh là ở chỗ đó. Ý thì đến từ cha, nhưng cha làm thế nào để ý đó được ý thức và được phát biểu nơi giáo dân. Sau nhiều xáo trộn và ồn ào, với những dư luận mà nhiều kẻ xấu miệng đã tung ra, không mấy hấp dẫn cho Giáo Xứ, nhiều địa điểm mục vụ lúc đó đã cảm thấy nhu cầu cần có một tổ chức để bảo tồn giáo xứ, để cộng tác với các cha. Sau một thời gian làm việc riêng rẽ, nhiều hội đoàn công giáo tiến hành đã cảm thấy nhu cầu cần có một cơ cấu để thống nhất các hoạt động. Những hội đoàn mà tôi đã từng tham dự, như nhóm Cầu Nguyện, nhóm Emmau, nhóm Ca đoàn, nhóm Thần Học Giáo Dân,...tất cả đều ý thức đến những nhu cầu mà tôi vừa nêu trên : nhu cầu sinh tồn, nhu cầu có tổ chức, nhu cầu thống nhất, nhu cầu cộng tác,..Một khi nhu cầu đã được ý thức, việc thực hiện trở thành dễ dàng.
1.2. GIAI ĐOẠN PHÔI THAI
Sau thời gian chuẩn bị, một loạt các hoạt động phôi thai đã được thực hiện. Tôi muốn nói đến việc thành lập và phát triển các hội đoàn, việc lập bản nội quy và việc bầu Ban Thường Vụ. Tất cả những hoạt động này đều được thực hiện trong một giai đoạn mà tôi mạn phép đặt tên là giai đoạn phôi thai của HĐMV.
Có nhiều ý kiến về HĐMV, nhưng ý kiến hay hơn cả có lẽ là ý kiến, theo đó, HĐMV phải được tạo thành do các cán bộ công giáo tiến hành, và đặc biệt là các cán bộ đang tại chức, đang làm việc. Đơn vị mục vụ gồm các địa điểm mục vụ và các hội đoàn mục vụ. Thực ra thì trong thời gian này, từ khoảng 1981 đến 1983, Cộng Đoàn Công Giáo Balê đã không lập thêm được một địa điểm mục vụ nào mới, mà chỉ lập được một số hội đoàn mục vụ mới. Nhưng ngay cả với những đơn vị đã hiện hữu, làm thế nào để mỗi đơn vị đều có được một ban đại diện không phải là một việc dễ. Lập được một ban đại diện, nhưng chính thức hoá và làm sao cho ban đại diện ấy được công nhận cũng là một việc không dễ khác, cần phải được thực hiện.
Từ việc thành lập đại diện của các đơn vị mục vụ sang việc lập HĐMV, đó không phải là việc đương nhiên ! Vì còn hai trở ngại lớn, trở ngại tâm lý và trở ngại pháp lý. Trở ngại tâm lý, tôi có ý nói đến việc hiểu biết nhau, việc làm việc chung với nhau. Hội đồng là nơi mà các đại diện làm việc chung với nhau. Làm thế nào họ có thể làm việc chung, nếu họ không biết có những ai. Do đó, việc đầu tiên phải làm là tạo dịp để các đại diện gặp gỡ và thông cảm nhau, nếu không nói là nhận diện nhau. Dĩ nhiên, lễ chủ nhật là dịp để họ nhận diện nhau, một vài hoạt động đặc biệt, như hai ngày thân hữu, cũng là dịp khác để họ làm việc chung với nhau. Những việc này đã được lưu ý. Nhưng, tổ chức một vài buổi họp để họ ngồi chung lại với nhau, cũng là một việc khác phải làm. Đó là lý do đã có những buổi họp rộng lớn vào năm 1983, đặc biệt là buổi họp đầu tiên, sôi nổi, hào hứng, vào ngày 27/02/1983.
Khó khăn thứ hai là khó khăn pháp lý, hay đúng hơn, có tính cách pháp lý. Dùng từ pháp lý thì hơi to. Vì đơn giản, nó là một bản văn qui định mục tiêu, thành phần, tổ chức, sinh hoạt của HĐMV, mà chúng ta có thể gọi là nội quy đơn giản. Đây là việc căn bản của bất cứ một tổ chức nào, huống hồ là của một tổ chức to lớn và phức tạp như giáo xứ Việt Nam Paris. Hai buổi đại hội đã được triệu tập, dành riêng cho việc này, đặc biệt là đại hội ngày 10/04/1983.
Có thể nói được rằng bản nội quy hiện nay là cô đọng ý kiến của tất cả các đại diện của tất cả các đơn vị mục vụ. Tôi nhớ, hồi đó, cha Vinh và tôi đã làm việc nhiều cho bản nội quy này. Chúng tôi đã phải viết đi viết lại đến ba lần. Lần thứ nhất, xong vào ngày 27/02/1983, sau khi đã cân nhắc từng chữ, từng câu, từng khoản, và đã so sánh với các bản nội quy khác của các ban hành giáo ở Việt Nam. Đại hội ngày 27/03/1983 đã sửa một số điều. Chúng tôi đã ngồi lại với nhau hai ngày để viết một bản mới, sửa theo những tiêu chuẩn mà đại hội đã đề ra. Bản thứ hai này đã được đại hội ngày 10/04/1983 nghiên cứu rất kỹ lưỡng : một số câu và chữ đã được sửa lại nữa. Chúng tôi lại phải ngồi lại viết bản thứ ba, để đệ trình vào đại hội ngày 30/10/1983. Lần này, đại hội đã chấp nhận toàn thể bản nội quy. Đó là bản nội quy đang được áp dụng hiện nay, với một vài tu chính do các đại hội ngày 23/06/1985, 13/12/1992, 12/10/1997 và 09/12/2001.
Còn một cơ quan quan trọng của HĐMV chưa được thành lập, đó là Ban Thường Vụ của HĐMV. Các thành viên của HĐMV là các đại diện của các đơn vị mục vụ, đẵ có đó. Nhưng các đại diện đông đảo quá, và mỗi lần tổ chức một phiên họp, thật là khó. Vả nữa, ai sẽ là người giải quyết các vấn đề thường ngày ? Đó là vấn đề quan trọng phải được thực hiện. Qua một ngày đại hội rất sôi nổi, ngày 30/10/1983, một Ban Thường Vụ tiên khởi đã được bầu ra. Yếu tố cuối cùng, nhưng quan trọng nhất, đã được hoàn tất. Từ đây, cụ thể mà nói, ta có thể bảo HĐMV đã được thành lập.
1.3. GIAI ĐOAN SINH HOẠT CHÍNH THỨC ĐẦU TIÊN 1983-1985
Tổ chức của cộng đoàn Giáo Xứ Việt Nam Paris là một tổ chức công giáo, trong dó, yếu tố pháp lý dân cử là quan trọng, nhưng không phải là quyết định. Sự quyết định đòi phải có sự hiệp thông của giáo hội địa phương, mà giám mục là đại diện chính thức. Báo Dân Chúa, số tháng 12/1985 có đăng bài của cha Phan tấn Thành, nói rõ về điều này như sau : « Tiếng hiệp thông nhấn mạnh đến các yếu tố nội tại tạo nên Giáo Hội. Các phần tử giáo hội đã được gắn bó với nhau, không phải bằng các cơ chế luật lệ bề ngoài, nhưng bằng các sợi dây liên kết bên trong. Tất cả các phần tử gắn bó với nhau vì cùng chia sẻ một gia sản chung, một sức sống chung, một vận mạng chung,..Sự hiệp thông trong cộng đồng địa phương đòi hỏi sự hiệp thông với giám mục ».
Tôi vừa dùng chữ ‘cụ thể mà nóĩ’, chứ không dám dùng chữ ‘chính thức mà nóĩ‘, vì BTV cũng như HĐMV chưa chính thức được giáo quyền địa phương công nhận. Phải đợi tới ngày 11/12/1983, khi đức cha Michel COLONI, giám mục phụ tá Paris, thay mặt đức hồng y J.M. LUSTIGER, đến giáo xứ, chủ lễ ra mắt của BTV, cũng như của HĐMV, ngày đó HĐMV mới chính thức được thành lập. Và từ đó, ta có thể nói rằng HĐMV đã bước vào giai đoạn thứ ba, giai đoạn sinh hoạt chính thức đầu tiên.
Từ ngày chính thức được công nhận, HĐMV tiên khởi đã làm được gì trong hai năm 1983-1985 ?
Trong bản phúc trình cho đại hội ngày 23/06/1985, đăng trong báo Giáo Xứ số 16, ông chủ tịch BTV-HĐMV đã trả lời vấn đề này. Phần tôi, tôi gợi lại vài yếu tố góp phần trả lời, cũng đã được đăng trong Báo Giáo Xứ số 11, ngày 01/12/1985, và sửa lại đôi chút như sau :
Sau hai năm sinh hoạt, HĐMV đã làm được gì ? Để trả lời câu hỏi này, người hời hợt và phiến diện sẽ nông nổi nói ngay rằng ‘Chưa được gì cả, chưa xây được nhà thờ, chưa gây được quỹ ‘. Trả lời như vậy tức là chối bỏ cái quỹ xây nhà thờ là to lớn, cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, cần có kế hoạch, cần hiểu biết về pháp luật và giáo luật đến chi tiết, cần quản trị nghiêm chỉnh. Một gia đình, nhất là một gia đình trẻ, tay trắng, muốn mua một căn nhà, và mua chịu, cũng còn cần phải làm một kế hoạch tiết kiệm năm năm. Huống hồ việc gây quỹ cho một cộng đoàn, một quỹ to, đủ để xây một nhà thờ, có phải một sớm một chiều, một năm một tháng mà làm được đâu.
Người khác lại trả lời rằng : ‘Được nhiều việc lắm : ra được báo, xây được sân xi-măng, giúp các cha tổ chức được hai ngày thân hữu, giúp các cha tổ chức được những lễ lạc lớn,...’ Câu trả lời này cũng hời hợt và nhất diện không kém gì câu trả lời trên. Như chúng ta vừa thấy ở trên, HĐMV này là HĐMV tiên khởi của cộng đoàn Giáo Xứ Việt Nam Paris, một cộng đoàn có nhiều vấn đề đa tạp cần giải quyết, và sự hiện diện ở đây có lẽ còn kéo dài thế hệ này qua thế hệ nọ.
Bởi vậy, tiêu chuẩn đầu tiên cần đặt ra là hỏi xem HĐMV có ý thức được sứ mệnh của mình và những vấn đề phải được giải quyết không. Không dám nói rằng HĐMV đã ý thức hoàn toàn được những vấn đề của cộng đoàn, nhưng có những dấu chỉ để bảo rằng HĐMV đã có thiện chí muốn nhận định những vấn đề ấy. Năm đề tài được đưa ra để thảo luận trong đại hội mục vụ ngày 17/06/1984, liên hệ đến năm việc quan trọng của cộng đoàn : 1. sự sinh tồn của cộng đoàn, 2. điều kiện phát triển cộng đoàn, 3. sứ mệnh tôn giáo và văn hoá của cộng đoàn, 4. tạo dựng cơ sở cho cộng đoàn, 5. những phương pháp gây quỹ cho cộng đoàn, là một biểu lộ của thiện chí ấy.
Tiêu chuẩn thứ hai cần đưa ra là hỏi xem « cách làm việc của HĐMV có phương pháp không ? » Để trả lời câu hỏi này, cần phải nhìn xem BTV và HĐMV làm việc thế nào. Ở điểm này, tôi xin mô tả cách làm việc của HĐMV như sau : BTV đã tạo được một sinh hoạt đều đặn là buổi họp hàng tháng. Kể từ ngày được thành lập đến nay, tháng nào Ban Thường Vụ và Ban Cố Vấn cũng giữ được phiên họp hàng tháng này, và đa số các phiên họp đã đều được sự tham dự đầy đủ của BTV và sự tham dự đông đảo của BCV. Do đó, sự trao đổi trong các phiên họp tương đối hào hứng và đa số tích cực. Riêng Đại Hội Mục Vụ thì nhiệm kỳ vừa qua chỉ tổ chức được hai lần. Đó cũng là lý do khiến việc tiếp sức với các đơn vị mục vụ chưa được dồi dào cho lắm.
Cũng ở trong phương pháp làm việc, đại để cách thức sau đây đã được BTV và BCV áp dụng để giải quyết các vấn đề. Truớc nhất, nhận định vấn đề. Nếu là vấn đề ngắn hạn cần được giải quyết ngay, thì nhận định xem có nên làm hay không, nên làm thế nào. Rồi phân công, rồi thực hiện. Nếu là vấn đề dài hạn, trường kỳ và phức tạp, thì mổ xẻ sự cần thiết, điều kiện pháp luật, khả năng có thể và kế hoạch thực hiện. Nhiều khi, sau một chuỗi làm việc, ở giai đoạn kế hoạch, một vài khó khăn mới lại nảy ra, đôi khi lại là những khó khăn ngoài khả năng, việc thực hiện lại được xét lại. Đại để đó là hai điều chính yếu trong phương pháp làm việc hiện nay của BTV - HĐMV. Cái giá trị của phương pháp ấy ra sao, tôi xin nhường lời cho mọi người phê phán.
Tiêu chuẩn thứ ba cần đưa ra là hỏi xem « HĐMV có đã tìm ra được những giải đáp tương ứng với những vấn đề của cộng đoàn chưa ? ». Câu hỏi này tương đối tế nhị, vì sứ mệnh của HĐMV chỉ là cộng tác với ban Giám đốc Giáo Xứ, chứ không bao giờ được vượt quyền của ban này. Dĩ nhiên điều này không có nghĩa là HĐMV chỉ thụ động vâng lời BGĐ, nhưng chỉ có ý xác định một nguyên tắc rằng trong các giải pháp được đưa ra, trong các quyết định được lựa chọn, tất cả đều phải được BGĐ, người trách nhiệm thực sự về tinh thần của cộng đoàn chấp nhận. Điều tế nhị thứ hai của tiêu chuẩn thứ ba này là tính cách liên tục và trường kỳ của nhiều vấn đề của cộng đoàn, đặc biệt là những vấn đề có tính cách tâm lý xã hội, như vấn đề đoàn kết, vấn đề tin tưởng, vấn đề tương trợ. Muốn đoàn kết các thành phần của cộng đoàn, đâu phải chỉ có một giải đáp chung, hữu hiệu cho hết mọi người, đâu phải chỉ cần làm một lúc. Nhưng phải linh động và thích ứng, tùy người và liên tục.
Như vậy là HĐMV đã đi được một chặng đường dài ? Quãng đường còn lại phải đi còn nhiều việc phải làm và còn nhiều khó khăn phải vượt qua ? Câu hỏi này gồm ba vấn đề. Vấn đề thứ nhất : HĐMV đã đi được một quãng đường dài ? Dài được bao nhiêu, tôi không dám xác định. Tôi chỉ dám nói rằng HĐMV đã đi được một quãng đường. Quãng đường còn lại chắc chắn là dài lắm. Vấn đề thứ hai liên hệ đến những việc sẽ phải làm. Về điểm này, xin mọi người tin tưởng vào BGĐ, HĐMV, BCV và BTV. Quí vị là những người sáng suốt, chắc chắn đã, đang và sẽ nhìn ra những việc phải làm. Không ở trong HĐMV, nhiều khi mình tưởng việc này phải làm gấp, có thể làm ngay. Nhưng ở trong HĐMV, hiểu biết cụ thể về khả năng của cộng đoàn, về nhu cầu của cộng đoàn, một cái nhìn khác lại nảy ra. Còn vấn đề thứ ba liên hệ đến các khó khăn, có lẽ khó khăn lớn nhất là phương tiện : phương tiện tài chánh, phương tiện thời giờ, phương tiện nhân sự. Xin Chúa dàn xếp, để thiện chí chúng ta được đền bù phần nào cho những khó khăn về phương tiện. |
|