Theo bài của chúng tôi nói về y phục phụng vụ thich hợp cho những thừa tác viên và những người giúp lễ, một đọc giả xin giải thích rõ hơn.
Anh ấy viết: “Cha trưng GIRM số 336. Y phục thánh chung cho các thừa tác viên được phong và được chỉ định thuộc bất cứ hạng nào là áo alb, được thắc ngang lưng với một giây lưng trừ phi áo alb được may đúng kích thước nên không cần dây thắt lưng. Xin cha vui lòng nói rõ ai là những người được coi như ‘những thừa tác viên được chọn của bất cứ hạng nào’?”
Kiểu nói “những thừa tác viên được bổ nhiệm của bất cứ hạng nào” cơ bản qui chiếu về tất cả những thừa tác viên được phong (giám mục, linh mục và phó tế) và những thừa tác vụ giáo dân đọc sách và giúp lễ được chỉ định.
Quan niệm về áo alb như là một y phục thánh chung có nghĩa là tất cả những thừa tác viên này có thể sử dụng áo alb trong bất cứ hành động phụng vụ nào.
Tùy thuộc vào những quy tắc của mỗi hội đồng giám mục, áo alb cũng có thể được sử dụng bởi các thừa tác viên giáo dân tình cờ khác, họ thực hiện những nhiệm vụ phụng vụ mà không có một sự bổ nhiệm riêng biệt, như những người giúp lễ, những người đọc sách và cả những thừa tác viên bất thường cho Rước Lễ.
Quan niệm về y phục chung cũng có nghĩa là một áo alb luôn luôn có thể được sử dụng cho những phục vụ phụng vụ thuộc bất cứ loại nào cả khi những qui tắc cho phép sử dụng những y phục thánh khác thay thế. Như vậy cần thiết phân biệt giữa “có thể sử dụng” và “phải sử dụng,” vì điều này có thể thay đổi từ cử hành này tới cử hành khác.
Ví dụ, những thừa tác viên được phong “phải sử dụng” áo alb khi làm Lễ. Cho những bí tích và á bí tích khác, các thừa tác viên đó “có thể sử dụng” áo alb hay là áo chùng thâm và áo các phép. Các thừa tác viên được bổ nhiệm “có thể sử dụng” áo alb, áo thâm chùng và áo các phép, hay là y phục được phê chuẩn khác trong Thánh lễ và những dịp khác.
Môt độc giả khác nhắc tới những áo tu sĩ: “Con lấy làm ngạc nhiên nếu những nghi thức xưa vẫn còn áp dụng. Cách riêng con nghĩ tới y phục đặc biệt do những kẻ giúp trong các dòng tu xưa nhất còn mặc, một số hội dòng sử dụng một mũ vì mục đích đó. Con cũng nghĩ tới tập quan trong những hội dòng xưa hơn không sử dụng dây stola trong một số nghi thức, nhất là để nghe xưng tội khi đã mặc áo.”
Vì những tập quán của một số hội dòng xưa có trước cà Công Đồng Trent, nên thường có hiệu lực của luật riêng và, trừ khi hủy bỏ hay bị lên án, thường thường được coi như những khác biệt hợp pháp trong Giáo Hội. Điều này cũng có thể được áp dụng cho tập quán liên quan dây stola được mang để giải tội nếu đó thật sự là một thực hành lâu đời và không phải là một phát minh mới.
Tuy nhiên, dầu một tập quán đáng kính có thể được đánh giá vì tôn trọng sự hiệu nghiệm mục vụ của nó. Mang dây stola khi giải tội nhắc cả hai thừa tác viên và hối nhân về bản chất bí tích và linh mục của cuộc gặp gỡ.
Cá nhân tôi muốn những tu sĩ đó nên bỏ một tập quán như thế, ít là khi thực thi thừa tác vụ bên ngoài cộng đồng, nếu việc mang dây stola là một thực thi mục vụ tốt hơn.Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
vietcatholic