|
Lịch Sử Tổng Giáo Phận - Phần 2
11.12.2008 03:36
2.2.Thời Tông tòa (1659-1960)
Thời kỳ Tông tòa của TGP Hà Nội, cũng như các vùng đất khác của Việt Nam, kéo dài 3 thế kỷ, từ 1659 đến 1960. Trong thời kỳ này, công cuộc truyền giáo và xây dựng GH ở GP Hà Nội được diễn ra dưới sự lãnh đạo của các đức giám mục đại diện Tông Tòa và một phần quan trọng của công cuộc này được thực hiện nhờ các thừa sai của Hội truyền Giáo Paris.
Giai đoạn 1659-1802
Ngày 9/9/1659, Tòa Thánh thành lập hai GP đầu tiên tại Việt Nam: GP Đàng Trong do Đức cha Lambert de la Motte đại diện Tông Tòa và GP Đàng Ngoài do Đức cha Francois Pallu làm Đại diện Tông Tòa. Vì lý do phân công phân nhiệm công tác, nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho công cuộc truyền giáo tại Á Đông, sau một thời gian họat động ở Á Đông, Đức cha Pallu đã ủy nhiệm cho Đức cha Lambert de la Motte kiêm Giám quản Đàng Ngoài.
Từ đấy, công cuộc truyền giáo tiếp tục phát triển ở một tầm cao mới nhờ có sự chăm sóc, hướng dẫn của các đấng chủ chăn. Tin mừng liên tục được rao giảng và GH không ngừng phát triển và lan rộng bất chấp sự bách hại tôn giáo của nhiều triều đại trong mấy trăm năm kế tiếp.
Năm 1669, Đức cha Giám quản Lambert de la Motte tới Đàng Ngoài kinh lược và ngài đã phong chức linh mục cho các thầy Việt Nam đồng thời lập nên Dòng MTG tại Kiên Lao và Bái Vàng, mở ra một giai đọan mới mà trong đó các linh mục và nữ tu người Việt đóng vai trò quan trọng và tích cực hơn trong việc truyền giáo.
Khảng thời gian gần 1 thế kỷ rưỡi, từ 1659 đến 1802, đất nước bị các dòng họ thế lực tranh giành xâu xé nhau, có giai đọan GP bị bách hại và bị cấm cách dữ dội, có giai đoạn GP được tương đối bình an và tự do truyền đạo. Song, lúc thuận lợi cũng như khi gian nan, công cuộc truyền giáo vẫn phát triển, số tín hữu vẫn gia tăng theo dòng thời gian. Năm 1679 GP Đàng Ngoài được chia hai: Tây Đàng Ngoài nằm bên hữu ngạn sông Hồng và GP Đông Đàng Ngoài bên tả ngạn. GP Tây Đàng Ngoài là tiền thân của TGP Hà Nội. Năm 1753, dưới thời Lê-Trịnh, ước tính GP Tây Đàng Ngoài có khoảng 131.727 giáo dân.
Giai đoạn 1802-1884
Từ năm 1802 cho đến năm 1820, dưới thời vua Gia Long, GP Tây Đàng Ngoài được bình an và tương đối tự do phát triển. Đời sống đạo ở các giáo xứ được củng cố và đào sâu. Các chủng viện được mở cửa gần như tự do và việc đào tạo diễn ra tương đối thuận lợi.
Những năm bình an trên đây là một giai đọan Chúa ban hầu chuẩn bị sức lực cho GP để bước vào một giai đoạn thử thách đau thương nhất trong lịch sử của GP Hà Nội cũng là của GH Việt Nam, kéo dài từ cuối thập niên 20 cho đến cuối thập niên 80 của thế kỷ 19, dưới các các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Trong giai đoạn này, GP Hà Nội bị bách hại dữ dội và chịu rất nhiều thiệt hại từ phía chính quyền cực đoan, bảo thủ và từ lực lượng Văn Thân mù quáng, quá khích. Nhiều nhà thờ bị phá hủy, nhiều linh mục, nữ tu và giáo dân chịu bắt bớ, giam cầm, phân sáp hoặc chịu chết. Hầu hết các thánh tử đạo của GP đều thuộc giai đọan này.
Mặc dù bị bách hại, nhưng nỗ lực truyền giáo của các thành phần dân Chúa, khiến cho công cuộc truyền giáo vẫn phát triển và số tín hữu trong GP vẫn gia tăng. Năm 1846, GP có 2 giám mục, 7 thừa sai, 93 linh mục, 282 thày giảng, 323 chủng sinh, 972 tiểu chủng sinh và thầy giảng tập sự, 673 nữ tu MTG, 48 giáo xứ 1176 họ đạo, 184.220 giáo dân. Cũng trong năm này, GP Nam Đàng Ngoài được thành lập và về sau được đổi thành GP Xã Đoài mà ngày nay gọi là GP Vinh.
Giai đọan 1884-1954
Từ những năm 1884 cho đến đầu thập niên 40 của thế kỷ 20, tức là từ khi triều đình Nhà Nguyễn ký Hòa ước Patenôtre, chấm dứt bách hại Công giáo và bảo đảm tự do tôn giáo cho người Công giáo, cho đến năm 1945 khi Việt Minh cướp chính quyền, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, GP bước vào giai đoạn phát triển toàn diện nhất trong lịch sử của mình.
Chính trong giai đọan này mà công cuộc truyền giáo của GP phát triển sâu rộng và dung mạo GP được định hình. Lúc này, các chủng viện được tổ chức quy củ, các giáo xứ được tổ chức nền nếp với những sinh họat phong phú, đa dạng. Công cuộc tông đồ bằng truyền thông và giáo dục phát triển. GP có những bệnh viện, nhà in, nhà xuất bản, nhà sách, tòa báo và trường học. Những cơ sở văn hóa-giáo dục và truyền thông này có uy tín và có ảnh hưởng trên GH và đất nước.
Cũng trong giai đọan này nhiều giáo xứ được thành lập; nhà thờ chính tòa và hầu hết các nhà thờ trong GP còn tồn tại cho đến hôm nay đã được kiến thiết trong giai đọan này. Nhờ thời thế bình an và công cuộc giao lưu Đông Tây mở rộng đã khiến nhiều dòng tu đến Hà Nội tham gia truyền giáo và xây dựng GP như các dòng: Thánh Phaolô (1883), Sư huynh La San (1884), Cát Minh (1885), Chúa Cứu Thế (1928), Hội Xuân Bích (1929), Đa Minh Lyon (1930), Kinh sĩ Thánh Augustino (1936), Đức Bà Truyền giáo (1941), Salésiens Don Bosco (Đầu thập niên 1950).
Trong những năm 1884-1945, nhờ số tín hữu gia tăng và công cuộc truyền giáo phát triển, cho nên có thêm 3 GP được khai sinh từ GP Tây Đàng Ngoài, đó là: GP Đoài sau đổi thành Hưng Hóa (1895), GP Thanh sau đổi là Phát Diệm (1901), GP Thanh Hóa (1924). Trong năm 1924 GP Tây Đàng Ngoài được đổi tên thành GP Hà Nội.
Từ những năm 1945 đến năm 1954, những xáo trộn chính trị và xã hội như Nhật đảo chính Pháp, nạn đói khát và dịch bệnh 1945, chiến tranh Pháp-Việt 1946-1954 đã khiến GP Hà Nội chịu nhiều thiệt hại: Chủng viện Liễu Giai bị tấn công năm 1946 và bị đóng cửa từ đấy. Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên cũng phải đóng cửa năm 1950. Nhiều giáo xứ và nhà thờ bị cô lập hay bị tàn phá bởi quân đội của hai bên. Nhiều giáo dân và một số linh mục, tu sĩ bị tấn công, bị bắt giữ, bị giết chết hay mất tích.
Mở đầu giai đọan nhiễu nhương ấy, năm 1945, một số các thầy chủng sinh của Hà Nội là Hoài Đức, Hùng Lân Nguyễn Khắc Xuyên và các bạn, xuất phát từ những thao thức xây dựng GH và quê hương, dưới sự tác động của CTT, đã thành lập Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh và phát hành các tập Cung Thánh, khai sinh nền thánh nhạc Việt Nam hiện đại. Những giai điệu êm đềm, mượt mà và những lời ca thánh thiện của nhạc đoàn này đã kịp thời an ủi và nâng đỡ đức tin cho giáo hữu đương thời trong cảnh nhiễu nhương cũng như cho các thế hệ tín hữu Công giáo Việt Nam về sau.
Một sự kiện khác, mang lại nhiều niềm vui và hy vọng bình an cho GP trong cảnh lọan lạc ấy là năm 1950, sau khi Đức cha Chaize Thịnh qua đời (1949), Tòa Thánh đã đặt cha Giuse-Maria Trịnh Như Khuê, Chính xứ Hàm Long, được bổ nhiệm làm Giám quản Tông Tòa GP Hà Nội và ngài đã được thụ phong giám mục ngày 15/8/1950. Sự kiện này chứng tỏ sự trưởng thành của hàng giáo sĩ địa phận Hà Nội và những gì vị mục tử mới thực hiện về sau đã chứng tỏ ngài là cơ may cho sự sống còn của GP, là vị mục tử khôn ngoan và can đảm được Chúa chuẩn bị để lãnh đạo GP Hà Nội và xây dựng GH Miền Bắc trong những thập niên khó khăn sau này.
Giai đoạn 1954-1960
Năm 1954, chiến tranh Pháp-Việt kết thúc, hiệp định Genève được ký kết, TGP Hà Nội, một lần nữa bước vào giai đọan thử thách và đau thương. Đức cha G.M Trịnh Như Khuê đã kêu gọi hàng giáo sĩ trung kiên bám trụ ở Miền Bắc để phục vụ giáo hữu. Ngài đã quy tụ được những linh mục tài ba, đạo đức ở quanh mình và ở các giáo xứ quan trọng trong GP, cùng nhau chèo chống bảo vệ GH trong cơn gian nan khốn khó. Một số linh mục trong số này về sau đã trở thành các giám mục các GP Miền Bắc như ĐHY G.M Phạm Đình Tụng, G.M Trịnh Văn Căn, G. Nguyễn Tùng Cương, P. Lê Đắc Trọng.
Mặc dù vậy, như các GP khác ở Miền Bắc, GP Hà Nội không tránh khỏi cuộc khủng hoảng nhân sự. Khoảng 80 linh mục di cư vào Nam. Ở lại chỉ còn 60 linh mục (triều, dòng và các thừa sai MEP) mà phần nhiều là các vị già yếu. Đại Chủng viện và Tiểu Chủng viện Piô XII và phần lớn các tu sĩ nam nữ tuổi dưới 40 của các nhà dòng cũng di cư. Dù sao thì số giáo dân GP Hà Nội cũng di cư ít hơn các GP khác: Số tín hữu năm 1937-1938 đã có 194.973 nhân danh và năm 1954, sau khi di cư vẫn còn khoảng 140.000 nhân danh. Tuy nhiên, số tín hữu tinh hoa, có nhiều khả năng phục vụ và số tín hữu ở Hà Nội, Hà Đông, Nam Định, Phủ Lý thì hầu hết đã ra đi. Từ đây vai trò của các tín hữu thành thị bị suy giảm và phải đến những năm 1990 mới bắt đầu được khôi phục nhờ số giáo dân nhập cư thành thị và nhờ sự gia tăng địa vị kinh tế và trình độ văn hóa của người công giáo thành thị, bên cạnh lòng đạo đức vốn có của họ.
Từ năm 1954, các sinh họat đạo nghĩa bình thường của GH từng bước bị hạn chế. Công việc đào tạo chủng sinh bị đình lại cho mãi đến năm 1956 mới mở được Tiểu Chủng viện thánh Gioan dành cho tiểu chủng sinh của các GP Miền Bắc từ Thanh Hóa trở ra. Trong khi đó, các cơ sở y tế và giáo dục của GP mau chóng bị đóng cửa và bị tịch thu.
Thế quyền tìm cách can thiệp trắng trợn vào nội bộ của GH, khống chế hàng giáo sĩ, ly tán giáo dân với giáo sĩ, khống chế và lọai trừ các giáo dân tích cực. Từ năm 1957, Đức Giám mục G.M Trịnh Như Khuê đã không thể đi lại giữa các giáo xứ trong GP và ngài trở thành tù nhân trong Tòa Giám Mục trong nhiều thập niên.
Năm 1955 mở đầu cho những mưu toan chia rẽ, phân hóa và nhằm làm suy yếu GH. Tại Hà Nội UB Liên lạc Công giáo được thành lập, một số linh mục và giáo dân đã tham gia. Cũng trong năm 1955 GP cũng còn bị một số phái đoàn linh mục “yêu nước” của Ba Lan và Tiệp Khắc được đưa sang Hà Nội nhằm tìm cách thao túng và đưa GH hay ít nhất một bộ phận trong GH tách khỏi sự hiệp thông với Rôma. Âm mưu của họ và các thế lực đứng sau họ đã thất bại trước lòng thủy chung với GH của hàng giáo sĩ giáo dân Hà Nội, tuy nhiên sự hiện diện của họ cũng làm cho GP phải long đong và căng thẳng một thời gian.
Từ cuối năm 1954, công cuộc truyền giáo ở các vùng dân ngọai bị đình chỉ. Nhiều giáo điểm đã bị giải tán. Đức cha Giám quản Tông Tòa và các linh mục nỗ lực bảo vệ và loan truyền đức tin qua các sinh họat giáo lý và đạo đức. GP tích cực xuất bản các sách phúc âm và các lọai kinh sách cơ bản để phổ biến cho giáo dân vì đã hiện hình nguy cơ các cơ sở in ấn của GH bị đóng cửa và các tài liệu tôn giáo sẽ không được xuất bản. Các lớp giáo lý ở các trung tâm chính trị quan trọng như Hà Nội và Nam Định vẫn được tiếp tục, thu hút cả nghìn người tham dự. Phòng trào tôn sùng “Đức Mẹ Hà Nội” do Đức Cha Giám quản khởi xướng năm 1955 đã gìn giữ và nuôi dưỡng đời sống đạo của hàng chục nghìn người trong GP.
Từ năm 1957, khi Ủy Ban Đình chiến và Giám sát thi hành Hiệp định Genève rút khỏi Hà Nội, thì các hành động khiêu khích, tạo cớ bách hại GH bắt đầu công khai xuất hiện với tần suất cao hơn và nhắm vào những nhân vật quan trọng trong GH. Năm 1958, Cha Chính G.B Nguyễn Văn Vinh bị bắt đi tù, sau khi đã khẳng khái và can đảm bảo vệ sự tự chủ và độc lập của GH trong các sinh họat thờ phượng và bảo vệ sự thánh thiêng của thánh đường.
Năm sau 1959, Đức cha Giám quản Tông Tòa và Đức Khâm sứ liên tục bị công an sách nhiễu, đe dọa và áp lực. Đến tháng 7 năm 1959, Đức cha Dooley, Khâm sứ Tòa Thánh tại Hà Nội đã bị ép buộc phải rời Việt Nam. Sau đó ít ngày, cha O’Driscoll, Thư ký Tòa Khâm sứ, cũng bị trục xuất, chấm dứt sự hiện diện của vị Đại diện Ngọai giao của Tòa Thánh sau 34 năm. Mối bang giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam từ đó đến nay vẫn chưa được nối lại. Theo Đức Khâm sứ, các thừa sai còn lại cũng lần lượt bị trục xuất cho đến cuối năm 1959 thì không còn vị nào.
Nói chung, từ năm 1954 đến năm 1960, GP càng ngày càng gặp nhiều khó khăn thử thách. Nhân sự sụt giảm, tài sản từng bước bị chính quyền chiếm dụng, các cơ sở giáo dục, y tế và từ thiện bị đóng cửa và cướp đọat. Hàng giáo sĩ bị cô lập, đe dọa và hạn chế họat động. Tất cả đã khiến GP lúc này như “một cánh đồng tan hoang”- theo nhận định của Đức cha Phaolô Lê Đắc Trọng.
Tuy nhiên, Hà Nội vẫn còn may mắn hơn các GP khác ở Miền Bắc, vì còn có vị chủ chăn, còn khá nhiều linh mục, trong đó còn có một nhóm các linh mục trẻ trung, vừa đi du học về, có trình độ học vấn tương đối cao, có lòng yêu mến và trung thành với GH. Các đấng bậc này hợp nhất với nhau để phục vụ GP và trong một mức độ nào đó là phục vụ cả GH Miền Bắc. Nhiều người trong số đó về sau trở thành giám mục như quý cha: G.M Phạm Đình Tụng, Đức cha G. Nguyễn Tùng Cương, G.M Trịnh Văn Căn, F.X Nguyễn Văn Sang, P. Lê Đắc Trọng.
(còn tiếp)
Nhóm Biên Tập |
|