Tâu Thượng Đế
Này thần dân xin hát mừng trước bệ
Tuyên xưng ngài là chúa tể càn khôn...
Tôn phong chúa, bậc tông đồ hợp xướng.
tán tụng ngài bao thế hệ tiên tri.
Đoàn tử đạo quang huy hùng dũng,
Máu đỏ đổ ra minh chứng về ngài.........

Đó là lời kinh Tê Deum, lời kinh cảm tạ mà cha khoan va hai thầy Hiếu va Thành vang lên trong ngục, cũng như trên đường ra pháp trường. Đó là lời kinh đem lại phấn khởi cho những ai được nghe. Đó là tiếng hát của Giáo Hội sơ khai, Khi cuộc bách hại 300 năm chấm dứt, nay lại vang lên trong môi miệng các vị tử đạo Việt Nam, vựơt thấu chín tầng mây, chấcp cánh cho các ngài bay về hợp đoàn với muôm thần thánh trên thiên cuốc.
Phao-lô Phạm khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Bông Hải, tỉnh Quảng Bình, thuộc giáo phận tây đàng ngoài. Sau khi thụ phong linh mục, cha phụ trách xứ Kẻ Vĩnh, rồi xứ Phước Nhạc, nơi đông dân cư nhất trong tỉnh. Cha Khoan rất hăng say hoật động tông đồ, ngaòi xứ chính ra, cha con phụ trách thêm hai họ Đông biển va Tôn Đạo. Mối tháng ngài đều đến họ lẽ dâng lễ, giải tội và khuyến khích giào hữu sống đạo đức, gương mấu hơn mối lần đi như vậy, cha thường dẫn theo vài thầy giảng để giúp dạy giáo lý và tiếp xúc sâu sắc hơn với quần chúng. Năm 1837, có hai thầy cùng đi với cha về giúp hô Đông Biển là thầy Phê-rô Nguyễn văn Hiếu 60 tuổi, người làng Đồng Chuối, và thầy Gio-an Bao-ti-xi-ta Đinh văn Thành, 41 tuổi, gốc Luốn Khê ( phát Diện ) . Trên đường trở về, cả ba cha con bị bắt và giải về Ninh Bình. Khi đó cha Khoan 66 tuổi.
Vì kính nể cha tuổi cao lại có tướng phúc hậu, một hôm quan tổng trấn mời ngài đến và nói: Ta muốm kết thân với ông. Ta tin cách cứu mạng ông thôi. Xin ông chịu khó chấp nhận bước qua Thập Gía. Cha trả lời: Mấy tháng qua trong tù, tôi đã suy tính kỹ lắm rồi, nhưng càng nghĩ, tôi càng sác tín hơn, cang cương quyết giữ vững đức tin cho đến chết . Rồi cha kể lại truyện sảy ra năm 1802.

Khi đó thái tổ Gia Long, phụ thân Hoàng Đế ra Hà Nội, chúng tôi có đến ra mắt. Ngài hứa cho chúng tôi được tự do giảng đạo, xây nhà thờ và các nhà bác ái. Ngài yêu cầu chúng tôi cổ động dân chúng sống thuận hòa và trăm chỉ làm ăn. Từ đó đến nay, tôi vẫn vâng lệnh Vua, nhắc nhở bà con làm điều tốt, trách điều xấu. Tôi thờ Vua trên trời và tuân phục vua dưới đất, tôi vẫn xin Vua trên trời ban ơn cho các quan, để thời các ngài được thái bình thịnh trị. Sao hôm nay quan bảo tôi bỏ lệnh tiên Đế mà tôi tuân hành biết bao năm nay?

Thế ông không muốm sống à?

Thưa quan, mọi sinh vật đều muốm sống, huống chi là con người có suy nghĩ. Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham sống. Thế nhưng với người Ki-tô-hữu, chết là cách sống đời đời trên thiên đàng.

Ai bảo ông là có thiên đàng?

Đó là truyện đương nhiên. như nhà vua vẫn ban thưởng cho những trung thần, thì chúa trời đất chẳng lẻ không ban thưởng cho những tôi trung phục vụ ngài đến chết sao? Nơi thưởng đó, chúng tôi gọi là thiên đàng

Vậy ai dạy cho ông biết là có chúa trời đất?

Thưa quan Tồng trấn, không can ai phải dạy cả, chính trời đất vũ trụ là cuốn sách dạy trúng ta bài học đó. Nhìn ngẵm những công trình kỳ diệu của thiên nhiên, tức khắc phải nhân ra có Đấng Sáng Tạo và gìn giữ nó. Chúng tôi gọi Đấng Tạo Hóa đó là Chúa Trời và tôn thờ ngài.

Vì hy vọng thời gian sẽ làm cho các anh hùng đức tin nản chí, quan tìm cách chỉ hoản vụ án thật lâu. Thấm thoát ba vị ở trong tù gần ba năm. Thỉnh thoảng quan lại cho gọi ra tòa đề nghị bước qua Thập Gía. Mới đầu khuyên nhủ ngọt ngào, sau dùng cực hình để cưỡng bách, nhưng không có thể cách nào làm các vị thay lòng đổi dạ.

Thái độ hai thây giảng làm cho mọi ngưởi bỡ nghỡ thám phục. Dù bị hành hạ dã nam đến đâu, hai thầy cũng thanh thản nhẫn nại, không bao giờ trách mắng chưởi rủa, chỉ lập đi lập lại máy điều Dù sống dú chết, chúng tôi không bao giờ bỏ đức tin. Niềm an ủi lớn nhất của hai thầy la đưôc gần cha Khoan, sớm hôm tâm sự va thỉnh thoảng lãnh bí tích giải tội. Các thầy coi những ngày trong tù như thời gian thanh luyện để lập công, đền bù những lỗi lầm từ thơ ấu. Đôi khi có người khéo léo đưa được Mình Thánh Chúa vào tù, đó là những ngày sung sướng và hạnh phúc nhất của ba vị.

Một lần cha Khoan nói thẳng với quan án rằng: '' Quan bảo tôi cha đạp Thập Gía điều chẳng hợp lý chút nào? Quan hỏi: Sao lại không hợp lý, ta chỉ cho ông con đường sống mà không hợp lý à? Cha nói: Thưa quan, nếu nước nhà có biến, mà quan sợ chết đạo ngủ là kẻ hèn nhát. Cũng vậy, tôi nhờ ơn Vua Cả trên Trời, tôi đâu có quyền sợ chết mà bỏ Ngài được.
Khi thấy hoàn toàn thất vọng về sự kiên tâm, quyết chí của bà người lính Đức Ki-tô, quan đành quyết tử ản gửi về triều đình xin phép. Trong những ngày trờ đợi cuối cùng đó, trại giam Ninh Bình vang vịng những tiếng hát hân hoan. Đó là tiếng cha Khoan và hai thầy giảng hát lên Kinh Tạ Ơn. Cha một câu, hai thầy một câu. nhịp nhàng rộn rã. Trên đương ra pháp trường, ba vị vẫn không ngừng cất tiếng ca những lới tri ân đó.

Tại pháp trường ngày 28/4/1840, cha Khoan xin phép nói với dân chúng đôi lời.

Thưa đồng bào và các bạn hữu, chúng tôi không phạm tội ác, không chống lại vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ vì là Ki-tô hữu, và không chịu bỏ đạo Ki-tô, là đạo duy nhất chân thật.

Lình đẩy ba vị vào khu vực riêng xa tam mắt dân chúng. Ba vị giơ tay lên trời, hai vị hợp ý cầu nguyện với linh mục:

Vinh Danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa Trời đất. Chúng con hiền dâng mạng sống cho Ngài. Xin Chúa chúc phúc cho nha Vua cai trị lâu dài trong an bình. Xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất có thể đem lai cho con người hạnh phúc đích thực.
Tiếp theo, ba vị lại cầu nguỵen bằng Thánh ca. Như trong đêm phục sinh, CHA kHoan hát lên ba lần ALLELUA, ALLELUA, ALLELUA,mỗi lần với cung giọng cao hơn, xen kẻ vảo đó, hai thầy giãng cũng hát thay cho cộng đoàn theo cao đô của vị chụ sự. ALLELUA,ALLELUA, ALLELUA. Sau đó, lý hình thi hành phận sự. Ba cái đầu cùng rơi xuống, đưa ba vị thánh về hợp xướng với đoàn thiên thần trên Thiên Quốc với khúc hát Phục Sinh Allelua bất diệt, Năm đó cha Khoan 69 tuổi, thầy Hiếu 63 tuổi, thầy Thành 44 tuổi, Thầy giảng Huấn chứng kiến từ đầu vụ hành quyết, đã lãnh thi thể ba vị về Phúc Nhạc an táng theo nghi lễ công giáo.