|
NGƯỜI NÔNG DÂN HIỀN LÀNH
Sự lạc quan trước những thử thách, đó là điều thiên chúa mong đợi cho mỗi tĩn hữu. Chúng ta có thể gọi điều lạc quan ấy là Đức Cậy, và dựa vào sức mạnh của Chúa mà tin vào ngày mai tươi sáng. Nếu đã tin vào Đức Ki-tô, Đấng đã chiến thắng các quyền lực sự ác, chúng ta thấy rằng không có gì cp1 thể làm lay chuyện công trình thực hiẹn trên thế giời này. Đối với những cuộc thử thách lớn lao hơn như tử đạo, như những hình khổ, mà chỉ cần một hành vi chối đạo cũng đủ để thoát khỏi, thì thái đô lạc quan kiên quyết của người tin hữu là một cuộc hiền dương Đức Cậy, như trường hợp thánh GIU-SE Tuấn.
Sau một năm rưới tù đày nhục khổ, các quan chi yêu cầu vị chứng nhân bước qua Thập Gía để được tha về. Nhưng chẳng người tôi tớ Chúa không tuân lệnh quan, lại con kính cần quỳ gối trước ảnh Chuộc Tội mắt hướng về trời cao và câu nguyện lớn tiếng rằng:
'' Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ trước tình yêu bao la va lòng thương xót hải hà của Chúa. Chúa là sức mạnh nâng đỡ con . ''
Giu-se Trấn văn Tuấn chào đời năm 1824 tại làng Nam Điền, một họ đạo của xứ Phú Nhai trong mãi gia đĩnh sống gnhề nông nhiều đời đồng Bằng Sông Hồng thuộc tỉnh Nam Định. Cũng như hàng ngàn người nông dân Việt Nam, niềm vui của anh là con trâu luống cày, để thu hoạch những bông lúa nặng trĩu do những giọt mồ hôi và công sức của mình.
Cũng với những giáo hữu đồng cảng ngộ, cuộc đời anh Giu-se Tuấn bông nổi cơn sóng gió vì những chiếu chỉ cấm đạo của nhà vua. cuộc bách hại vào giai đoạn cao điểm này đã ảnh hưởng đến các phần tử nhỏ bé tầm thường nhất trong Giáo Hội Việt Nam. Năm 1860, anh Tuấn bị bắt vào năm 36 tuổi, và bị giải tới phủ Xuân Trường cùng với một số giáo hữu khác. Về sau, anh lại bị phân sáp làng vào An Bài, thuộc tỉnh hải Hậu.
Từ khi về làng An Bái, anh Giu-se Tuấn bị giam trong ngục chật hẹp, cổ mang gông, chân cùm xiềng xích. Nhưng người chiến sĩ đức tin vẫn kiên trì chịu đựng trong nhẫn nại và vui vẻ. Theo chiều chỉ Phan sáp tháng 8/1861, quan lính nung đỏ thanh sắt, và khắc một vào má của anh một bên chữ ( Ta Đạo ), một bên là nguyễn quán làng xã. Sau những ngày tháng tù tội cơ cực, sức khỏe anh Tuấn suy giảm rất nhiều, các quan tưởng anh sẽ nản chí bỏ cuộc, nên điêu ra v2 yêu cầu bước qua Thập Gía. Quan con hứa ban tặng tiền bác sau khi trả tự do cho anh.
Nhưng quan thất bại chua cay, nhưng người nông dân tầm thường đó không dễ bị lung lạc thối chí. Ngược lại, anh còn thừa trung tín và can đảm để biểu lộ niềm tin của mình. Vì tin vào Đấng Sáng Tạo yêu thương vô biên, và tin vào Đấng Cứu Thế, nguồi trợ lực tâm hồn, anh Giu-se Tuấn thành kính quỳ trước anh Chuộc Tội và nói lên lời cảm tạ Thiên Chúa, Đấng mà chính anh đang cảm nghiệm được sự nâng đỡ của Ngài. Và anh đã phải trả giá cho niềm tin đó: Quan kết án tử hình người chiến sĩ Đức-ki-tô làng Nam Định.
Ngay 7/6/1862, trên đường tới nơi xử trảm, anh Giu-se Tuấn bình thàn đi sau đám quân lính, vừa đi vừa sốt sáng đọc kinh cầu Các Thánh. Tới nơi, lý hính đã vung gươm chém đầu vị chứng nhân, đang khi anh quỳ gối, miệng vân kêu tên đấng cực trọng Chúa Giê-su. Người nông dân chất phát hiền hoa nhưng đạo đức. gan dạ, đã dùng chính máng mình thay vì ngôn từ, để làm chứng cho Chúa Giêsu Ki-tô, nguồn chân lý vĩnh cửu bất diệt. Hai năm sau, thi hài vị tử đạo được các giáo hữu cải táng và được lonh trọng rước về trôn cất tại nhà thờ họ Nam Điền, quê quán của ngài. Ngày 29/4/1952 cùng với 24 vị tử đạo khác tại Việt Nam, ngưởi nông dân nghèo khó thánh thiện GIU-SE Trần văn Tuấn, đã được Thánh Cha Pi-ô XII tôn phong bậc chân phước.
|
|