|
QUAN ĐIỂM CỦA LÉON BLOY VỀ SATAN
Léon Bloy tự hào rằng ông là người duy nhất - ông thường nói: người duy nhất! - hiểu được Satan là gì. Ông thấy Satan là ngôi thứ ba của Thiên Chúa, nên chúng ta không nên ngạc nhiên khi thấy ông gán cho Satan quá nhiều quyền năng. Trong cuốn sách ông viết về Christophe Colomb có tựa là Le Révélateur du Globe (Đấng Mặc Khải về Thế Giới) (1884), người ta đọc thấy:
"So với tất cả chuyện đời nay, thì quan niệm về ma quỷ là một quan niệm thiếu chiều sâu nhất, nông cạn nhất, thiếu điều đã trở thành một đối tượng của văn học. Chắc chắn là ma quỷ do phần đông các thi sĩ nghĩ ra không làm ai sợ kể cả trẻ con. Tôi chỉ biết có một ông Satan duy nhất do các nhà thơ nghĩ ra mà thực sự đáng sợ thôi. Đó là ông Satan của Baudelaire, vì ông ta là người dám nói phạm thượng.
Tất cả những Satan khác, kể cả Satan của Dante, chỉ làm cho tâm hồn chúng ta an tâm, và những đe doạ của chúng chỉ làm nhún vai những em bé gái đang học lớp giáo lý nhi đồng vốn rất dốt về văn học. Nhưng cái ông Satan đích thực mà chúng ta không còn biết tới nữa chính là Satan của bà Evà, là kẻ đã cám dỗ Đức Giêsu Kitô. Satan đó quái đản đến mức, nếu cho phép tên khốn kiếp ấy hiện nguyên hình đúng như bản tính của hắn - trong sự trần trụi siêu nhiên của sự Không-Tình-Thương (Non-Amour) - thì loài người và toàn thể các giống thú chỉ kêu lên một tiếng rồi chết ngất...".
Cho tới đây chúng tôi hoàn toàn đồng ý với Léon Bloy. Nhưng đoạn tiếp theo đây có nhiều chỗ chúng tôi không đồng ý cho lắm, vì ông tỏ ra hơi quá đáng:
"Satan hiện diện giữa mọi đôi môi và mọi ly rượu. Hắn ngồi trong tất cả mọi bữa tiệc, và giữa những chiến thắng hắn làm cho chúng ta no nê những chuyện kinh tởm. Hắn nằm trong cái góc tối tăm nhất trên giường của đôi tân hôn. Hắn gặm nhấm và làm dơ tất cả những tâm tình, hy vọng, tất cả những gì trong trắng, tinh khiết, tất cả mọi vinh quang của con người. Cái ngai mà nó ưa ngồi nhất là cái chén vàng của tình yêu đang độ nở hoa. Và cái bồn tắm ngọt ngào nhất của nó là cái mái ấm màu tím của tình yêu đang bốc lửa.
Khi chúng ta không nói với Thiên Chúa cũng như không nói vì Thiên Chúa, tức là chúng ta nói với ma quỷ, và chính hắn nghe chúng ta nói, trong một bầu khí im lặng khủng khiếp. Hắn đầu độc tất cả mọi dòng sinh lực và mọi nguồn tử vong. Hắn đào những cái hố giữa mọi con đường chúng ta đi. Hắn trang bị vũ khí cho toàn bộ vạn vật để chống lại chúng ta, đến nỗi Thiên Chúa phải được giao nhiệm vụ canh giữ mỗi người chúng ta cho một thiên thần của Ngài, để chúng ta không bị hư hoại ngay từ giây phút đầu tiên khi sinh ra. Cuối cùng Satan ngồi trên thượng tầng trái đất, đặt bàn chân hắn trên năm châu thế giới. Và không có gì nơi con người được thực hiện mà không có hắn can thiệp vào, mà hắn không bị can thiệp, mà hắn không phải can thiệp vào".
Và ông kết luận:
"Đó chính là đế quốc vô giới hạn của Satan. Hắn thống trị như một vị vua trên vô số thần dân là những đứa con thảm hại của sự tự do nơi con người".
Léon Bloy đã nhiều lần trở lại với chính những ý tưởng này. Những ý tưởng này đúng ra là của Luther, là nhà thần học bi quan về tội tổ tông, cho rằng tội ấy không thể tẩy xoá và huỷ diệt được. Léon Bloy đã trở lại với những ý tưởng đó trong các cuốn sách của ông: Belluaires et Porchers (Những người dạy thú và những kẻ chăn heo) (1905); L'Âme de Napoléon (Tâm hồn của Nã-phá-Luân) (1912); và ở nhiều chỗ khác nữa. Một hôm ông viết thư cho Pierre Termier: "Tất cả những gì tân thời đều là của ma quỷ. Đó là mấu chốt của mọi cuốn sách tôi viết, và của tác giả những cuốn sách đó". Trong cuốn L'invendable (Cái không thể bán được) (1909), ông viết: "Mai mốt chúng ta sẽ phải đối diện với một trường hợp quỷ nhập khắp nơi (possession universelle)!" (tr. 219).
Nhưng làm sao Léon Bloy khảo sát quyền lực đen tối của Satan kỹ lưỡng như thế lại có thể đồng hoá Satan với Đấng Yên Ủi được? Làm sao kẻ mà ông nhận là Không Tình Thương - cũng như chúng ta vẫn công nhận - lại có thể trở thành hiện thân của Tình Thương được?
Đó chính là bí mật thâm sâu nhất của Léon Bloy. Ông bị mất hút trong những thế giới biểu tượng bí hiểm nhất, và ông vui thích với những lần xuất thần chỉ dành riêng cho ông thôi. Ngày 21.10.1889, ông viết cho vị hôn thê chưa cưới của ông là con gái của một văn sĩ Đan Mạch tên Molbech, như sau:
"Em hãy nhớ... điều đã được mặc khải cho anh ngày xưa, và chỉ một mình anh trên đời mới có thể nói được điều đó, chẳng hạn như: cái dấu hiệu của đau khổ và nhục nhã - tức Thập Giá - lại là biểu tượng gợi cảm nhất của Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu - là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể, là Đấng đại diện cho toàn thể nhân loại - đã vác trên vai Thập giá này, cái Thập giá còn lớn hơn thân Ngài, đè nặng lên Ngài. Simon Xirênê phải giúp Ngài vác một quãng đường. Khi anh nghĩ tới nhân vật nhiệm mầu vĩ đại ấy, được tuyển chọn từ đời đời giữa hàng tỉ tạo vật, để một ngày kia giúp đỡ cho Ngôi Hai Thiên Chúa vác cái hình ảnh của Ngôi thứ Ba, anh cảm thấy sâu sắc một sự kính trọng vô biên giống như một nỗi sợ sệt.
Simon có nghĩa là Vâng Lời. Nhưng chính Đấng-Không-Vâng-Lời - tức Chúa Thánh Thần - đã đặt Thập giá lên vai của một người vâng lời khác là Đức Giêsu Kitô. Jeanne, em thương, em hãy nhận ra rằng trong sự việc đó có ba nhân vật, hai kẻ vâng lời phải vác cái gánh nặng khủng khiếp của Đấng-Không-Vâng-Lời, và cái bộ ba thảm thương ấy đang trên đường đi tới chỗ chiến thắng cái chết. Thật là một vực thẳm khủng khiếp!"
Trong một thư khác đề ngày 2.12.1889, ông đã cho thấy quan niệm của ông về tội nguyên tổ và sự phục hưng cuối cùng. Ông viết:
"Đây là cách quan niệm của tôi về cái thảm kịch vĩ đại của tội nguyên tổ: Con Rắn, biểu trưng cho mặt đen tối của Chúa Thánh Thần, đã lừa dối người đàn bà, mà người đàn bà này lại là biểu trưng cho mặt sáng láng của Ngài. Người đàn bà đã chấp nhận và ăn cái chết vào mình. Cho tới đây, loài người chưa gọi là sa ngã, vì nếu người đàn bà đã đánh mất sự vô tội diệu kỳ của nàng, gấy bất lợi cho tiết tháo, vốn là phản ánh sự vô tội của nàng, thì người đàn ông - biểu trưng sáng lạn của Ngôi Hai Thiên Chúa - chưa đánh mất chính sự vô tội ấy bằng hành động tự do của mình. Đó là một tình huống chưa bao giờ xảy ra với họ, hầu như không thể quan niệm nổi. Anh xin em hết sức chú ý điểm này. Người đàn ông và người đàn bà phải đối diện với nhau, tranh chấp với nhau chỉ một mình họ thôi, vì Con Rắn đã nhập vào người đàn bà, đã trở nên một với nàng rồi. Bóng tối và ánh sáng đã pha trộn với nhau suốt bao thế kỷ rồi. Người đàn ông và người đàn bà đó, tức Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần, phải đối diện với nhau, dưới bàn tay của Chúa Cha.
Người đàn bà, biểu trưng của Chúa Thánh Thần, đại diện cho tất cả những gì đã sa ngã và sẽ sa ngã. Người đàn ông, biểu tượng của Chúa Giêsu, đại diện cho sự cứu rỗi phổ quát nhờ sự chấp nhận, nhờ sự thăng hoa tự do của mọi sự sa ngã, của toàn bộ sự ác có thể xảy ra: Và nhờ phép lạ của một tình thương vô biên, người đàn ông bằng lòng hy sinh sự vô tội của mình để chia sẻ hoa trái của sự chết, để rồi một ngày nào đó sẽ chiến thắng chính cái chết đó, khi mà sự đau khổ đã làm cho sự tự do của y lớn lên một cách kỳ diệu. Lúc đó, cả hai đều nhận ra rằng họ trần truồng, bởi vì Sự Cứu Chuộc - vốn đã khởi sự - một ngày nào đó sẽ hoàn tất trên một cái cây - mà cái cây trong vườn địa đàng, chỉ là biểu tượng có trước của cây này - ngày đó, của lễ hiến tế, lễ vật hy sinh phổ quát là Sự Tự Do và Tiết Tháo phải được nhìn ngắm hoàn toàn trần trụi trên Thập giá tượng trưng cho sự đền tội của mọi người. Nếu anh không chết vì lạnh, thì còn có 50 chuyện khác để nói nữa!
Bất chấp! Bằng một nghĩa cử không sao nói được, không sao hiểu được. Tình yêu đã nhập vào trần gian. Ngôi Lời - vốn không thể tách rời khỏi Tình Yêu - cũng đã theo Tình Yêu nhập vào trần gian. Và Chúa Cha đã liên tục dùng cái này để nâng đỡ cái kia. Trước tiên người đàn ông đã hy sinh sự tự do của mình một cách đau đớn để cứu lấy vợ mình, và kế đó, người đàn bà đã hy sinh tiết tháo của mình một cách đau đớn hơn nữa để giải thoát cho chồng mình. Khi em viết thư cho anh nói rằng có lẽ chỉ có người đàn bà là giàu có, và chỉ có người đàn ông là nghèo nàn, là em đã diễn tả - có thể là vô tình chăng? - một trong những công thức tuyệt diệu nhất của khoa chú giải thượng thặng. Và cái công thức đó chỉ hoàn toàn đúng theo chiều hướng của khoa chú giải đó thôi, và điều đó chính là đối tượng anh muốn trình bày trong lá thư này".
Nếu chúng ta hiểu rõ được cái ngôn ngữ tối nghĩa và kiêu kỳ này, thì Con Rắn, tức Satan, biểu trưng cho bề mặt đen tối của Đấng An Ủi, đã phỉnh gạt người phụ nữ, phụ nữ này không phải chỉ là bà Evà, mà còn là Người Phụ Nữ sẽ trở nên Trinh Nữ Maria nữa, là biểu trưng cho mặt tươi sáng của chính Đấng An Ủi đó. Con Rắn "đã trở nên một với nàng", nghĩa là Satan, cả Ánh Sáng lẫn Người Phụ Nữ "đã pha trộn vào nhau suốt bao nhiêu thế kỷ rồi". Con Rắn và Người Phụ Nữ chỉ còn là một hữu thể, hữu thể đó chính là Đấng An Ủi. Nhưng, sau khi sa ngã và lúc trỗi dậy, "Bằng một nghĩa cử không sao nói được, không sao hiểu được. Tình yêu đã nhập vào trần gian. Ngôi Lời - vốn không thể tách rời khỏi Tình Yêu - cũng đã theo Tình Yêu nhập vào trần gian. Và Chúa Cha đã liên tục dùng cái này để nâng đỡ cái kia". Đấng An Ủi đồng nghĩa với Lucifer. Hình ảnh gây xúc cảm nhất đối với Lucifer là Đứa Con hoang đàng. Người Cha lo lắng chờ đợi đứa con trở về. Lucifer sẽ trở lại. Hắn sẽ được Chúa Cha hớn hở đón tiếp. Người anh của hắn sẽ không hài lòng. Nghĩa là Giáo Hội sẽ bách hại Đấng An-Ủi-và-Giải-Phóng, Đấng sẽ nhổ đinh cho Đức Kitô vào thời kỳ cuối cùng. Đó là Sự Giáng Lâm bất khả tư nghị sẽ xảy đến trong tương lai, là sự chiến thắng của Do Thái giáo (Synagogue), và là Vinh Quang của Satan.
Chúng ta hãy tạm ngưng trình bày những điều phi lý ấy tại đây. Khi đọc bản buộc tội Léon Bloy của R. Barbeau, ít nhất chúng ta có thể xếp Bloy vào số người theo tân-ngộ-đạo-thuyết (Néognostique), càng ngày càng đông từ hai thế kỷ nay. Qua việc đó chúng tôi muốn nói gì? Cách đây 18 thế kỷ, ngộ đạo thuyết gồm những người rối đạo tự cho mình là cao hơn những tín hữu bình thường. Họ đọc Kinh Thánh với một niềm tự hào là đã tìm thấy trong đó những ý nghĩa nhiệm mầu mà những tín hữu bình thường không thể hiểu nổi, và họ dựng nên những hệ thống khó mà tin được về những "éons" (vị thần), là những hữu thể trung gian, ở giữa Thiên Chúa và vật chất, chúng được hiểu như một chiếc cầu nối vật chất - được đồng hoá với sự ác - với Thiên Chúa, là Đấng ở rất xa dường như không thể đạt tới được.
Cũng như những người ngộ đạo thuyết, Léon Bloy tin rằng cái bí mật mà ông khám phá được chỉ dành riêng cho ông và một vài người được thụ pháp (initíes) mà chỉ một mình ông mới hiểu những gì được mạc khải cho họ. Ông cũng muốn tìm cho bí mật này một chỗ dựa trong Kinh Thánh, nhưng được chú giải theo cách riêng của ông. Ông sống trong một niềm hy vọng ngông cuồng rằng sẽ có một tai biến mà trong đó ông không phải chỉ là một người chứng kiến, mà còn là một tác nhân chủ động nhất nữa. Ông nghĩ rằng ông sẽ là tiên tri, là người loan báo ưu tuyển về ngày tận thế (parousie). Theo ông, ngày này chính là ngày Lucifer, được tôn vinh và lấy lại danh hiệu cũng như vinh quang của Đấng An Ủi, và cũng là ngôi vị thứ ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Để Satan được khôi phục lại, chỉ cần kẻ đang là Không-Tình-Yêu trở lại thành Tình Yêu như lúc đầu, và kẻ ấy xin với Chúa Cha rằng: "Con xin Cha chuyển sự Công Bình của Cha thành Vinh Quang của Cha!" Câu đó có nghĩa là: Nếu Thiên Chúa cầm giữ Satan trong hoả ngục, cùng với những kẻ bị trầm luân khác do hắn lôi kéo, thì Ngài đã làm một hành vi công bình, nhưng điều đó có hại cho vinh quang của Ngài. Việc tạo dựng tức công trình của Ngài như vậy là chưa hoàn toàn. Nói vắn tắt, nếu hoả ngục tồn tại vĩnh cửu, thì việc tạo dựng kể như thất bại! Như vậy là có một vết đen, có một vết bẩn không thể chấp nhận được. Cho nên "vì vinh quang của Ngài", Thiên Chúa bắt buộc phải tha thứ cho Satan và cho tất cả mọi người bị trầm luân. Ngài không thể để cho sự kinh tởm được gọi là Hoả Ngục ấy tồn tại mãi!
Dường như đó là bí mật của Léon Bloy. R. Barbeau, tác giả cuốn sách mà chúng ta vừa phân tích, đã tuyên bố nghiêm chỉnh như sau:
"Cuốn sách này chỉ là một phần văn bản đã được đệ trình ở Sorbonne ngày 1.6.1955. Cả một loạt những vấn đề quan trọng - mà chúng tôi sắp liệt kê ra - đã được xuất bản trong một công trình nghiên cứu được xuất hiện sau này, kèm theo những lá thư và những bản văn chưa từng được xuất bản. Những vấn đề quan trọng vừa nói, chẳng hạn như sự chuyển kiếp (réincarnation) của người "Phụ Nữ nghèo nàn" (Femme pauvre) ấy, niềm tin của Léon Bloy vào sự chuyển kiếp của nhiều người bạn ông, sự tự hào không thể lay chuyển cho rằng chính ông cũng là một nhân vật quan trọng được chuyển kiếp, sự bất hiện hữu của thời gian, thiên thần tính của Satan trước khi sa ngã, việc con người tự thần thánh hoá mình, những chủ đề về vườn địa đàng, về châu Atlantide, vế phái tính của Người Phụ Nữ đó, sự loạn luân, Thiên đường theo ngộ đạo thuyết, ngôn ngữ huyền bí, nghệ thuật Lucifer, chu kỳ bảy năm, năm hạn, Thánh Graal, sự tất yếu và tự do, hai Vực Sâu, thuyết đảo ngữ (hay nói lái, như gare thành rage), và nhiều vấn đề khác thuộc huyền bí học, cũng như hai tài liệu đầy đủ về chủ nghĩa Lucifer từ tính (luciférisme magnétique) của Éliphas Lévi, và chủ nghĩa Lucifer huyền thoại (luciférisme mythologique) của bà H.P. Blavatsky. Những vấn đề trên đã tạo nên mối quan hệ giữa Léon Bloy và những người thụ pháp (initié)".
Léon Bloy đã dẫn chúng ta vào một cảnh đầy huyền hoặc. Chúng ta hãy tiếp tục ở trong cảnh này ít lâu nữa với Giovanni Papini. |
|