|  | 
 Linh mục Thánh Théophane Vénard
 Điềm  lành báo truớc.
 
 Ngày 21.11.1829, ngày lễ Đức Mẹ dâng mình  trong đền thờ, cậu Tê-ô-phan vê-na mở mắt chào đời ở làng Săngtôlu-pô  (Sanctolupo) tỉnh Poa-ti-ê (Poitier), nước Pháp, phải chăng đó là điềm  lành, là dấu chỉ báo trước ngày sau cậu bé này có lòng sùng kính Đức Mẹ  cách đặc biệt.
 
 
       Thánh Ven Theophane Venard Cha  cậu là ông Gioan, mẹ cậu là bà Maria, cả hai ông bà là người đạo đức  hiền lành thuộc dòng họ theo đạo từ lâu đời. Ông Gioan dạy học, bà Maria  ở nhà coi sóc con cái và trông nom đồng ruộng, gia đình vào loại khá  giả.
 Ông bà sinh được 6 con, hai con út chết từ khi bé, con cả  là chị Mê-la-nia dâng mình cho Chúa trong nhà dòng, Thánh Tê-ô-phan  vê-na là con thứ hai, cậu Hăng-ri-cô là con thứ ba xây dựng gia đình,  cậu thứ tư là Ơ-sê-bi-ô làm linh mục.
 Cậu Vê-na, người nhỏ nhắn,  khôi ngô, nét mặt tươi vui, nghiêm trang, không hay chơi đùa như các  bạn, siêng năng đi nhà thờ đọc kinh, thông minh sáng dạ, mới lên bảy  tuổi cậu đã viết thạo và đọc sách trơn. Ngoài giờ học cậu cũng chịu khó  đi chăn bò, chăn chiên giúp cha mẹ.
 
 Mơ ước phúc tử đạo từ  thời thơ ấu.
 
 Một niềm vui của cậu Ve-na là đọc sách truyện  các thánh, cậu mê say đọc. Một hôm cha xứ cho cậu mượn chuyện các đấng  đi truyền giáo nơi dân ngoại, trong ấy có truyện Cha Coóc-nây (Tân) là  người đồng huơng đã giảng đạo ở Việt Nam và mới được phúc tử đạo. Cậu  Vê-na không sợ lại vui mừng xem đi xem lại hai ba lần rồi nói: “Tôi ước  ao được sang giảng đạo ở Việt Nam và được phúc chết vì đạo”. Từ đó tâm  trí cậu bé luôn bị ước mơ tốt đẹp ấy ám ảnh, cậu xin cha mẹ cho mình đi  học La-tinh để sau làm Linh mục. Cha mẹ cậu vui mừng cho con vào học với  cha xứ một năm rồi gửi vào Chủng Viện Poa-ti-ê. Sáu năm học ở đây chú  Vê-na làm gương sáng cho các bạn về sự học hành, tập đi đàng nhân đức,  giữ luật phép nhà. Ngày lễ Đức Mẹ vô nhiễm, mới vào học được hai tháng,  chú đã khấn lần hạt mọi ngày kính Đức Mẹ và chú đã giữ cho đến chết. Chú  vào hội trái tim Chúa Giêsu để cầu cho kẻ có tội và kẻ ngoại trở lại,  và vì ước ao đi giảng đạo cho dân ngoại mà chưa đi được, nên chú cũng  xin vào hội giảng đạo, hàng tuần góp tiền ấy.
 
 Ơ Chủng Viện một  năm, Chú rước lễ lần đầu, chú dọn mình sốt sáng kĩ càng và từ đấy chú  tôn sùng phép Thánh Thể cách riêng.
 
 Năm sau, Chúa gửi cho chú  một thử thách nặng nề, người mẹ thân yêu qua đời. Chúa viết thư về an ủi  cha và chị em nhưng chính mình lại thường nhớ đêm ngày không ngủ được.  Chúa muốn yên ủi người con riêng mình, cho chú xem thấy sự lạ này: Một  đêm chú đang khóc thương mẹ, bỗng Thánh Thiên Thần dắt mình vào một nơi  rực rỡ chói lọi. Mở mắt ra, chú thấy mẹ ở giữa những người sáng láng  đang hát mừng ngợi khen Chúa. Từ đó chú không còn buồn sầu nữa. Chú giữ  kín sự lạ ấy cho đến khi từ giã cha và chị em lần sau hết để đi giảng  đạo mới tỏ ra và buộc mọi người không được nói với ai.
 
 Sáu năm ở  chủng viện, chú Ve- na học hành tấn tới, luôn đứng nhất lớp, trổi vượt  hẳn các bạn, chú lại đạo đức khiêm nhường hoà nhã không mất lòng ai bao  giờ, giáng người nhỏ nhắn thanh lịch, nói năng từ tốn, nét mặt vui tươi  rạng tỡ, ai trông thấy cũng phải mến, phải thương.
 
 Thực hiện  mơ ước niên thiếu
 
 Vào đại Chủng Viện, Thầy Ve-na mới tỏ ra  cho cha linh hồn biết ý định của mình từ thời thơ ấu để người định liệu,  sau khi đã cầu nguyện suy xét kỹ lưỡng, cha bằng lòng nhưng đòi thày  phải chờ khi đã chịu chức năm.
 
 Ngày 24-12-1850, Thày Ve-na chịu  chức năm, đó cũng là bước đầu thày thực hiện mơ ước buổi thiếu thời, năm  ấy cũng là năm thứ ba triều vua Tự Đức với sắc chỉ cấm đạo ban hành từ  năm 1848. Sau đó thày về quê thăm gia đình, tỏ cho cha và chị em biết ý  định của mình, rồi lên đường vào đại chủng viện Hội Truyền Giáo Pa-ri.
 
 Ơ đây bầu không khí thánh thiện sốt sáng, những sự việc cụ thể, những  tin tức từ nơi truyền giáo càng làm cho mơ ước của thày tăng dần đến tột  đỉnh. Qua những lá thư này thày viết cho chị Me-la-ni-a, thày kể lại  gian phòng bài trí các dấu tích, gôm cùm, xiềng xích của các đấng Tử  Đạo, những tranh ảnh mô tả lại những cái chết anh hùng của các Ngài,  những buổi tối đến kính viếng các dấu tích ấy để xin các ngài bầu cử cho  mình được theo chân nối gót các ngài, khách thập phương cũng đến đây  kính viếng cầu xin rất đông.
 
 Thày Vê-na mới vào được hai tháng  có thư của Đức Cha Rơ-to (Liêu) địa phận Tây Đàng Ngoài báo cho Cha  Sép-phơ-lơ (Đông) mới phải bắt và phải sử ở Sơn Tây, nên Thày càng ước  ao chóng đến ngày được diễm phúc ấy, và Thày thường nói đó là đường tắt  đưa thẳng về Thiên đàng.
 
 Ơ đây, Thày Vê-na cũng nổi tiếng đạo  đức, thông thái nên tháng 5.1851 Thày được chịu chức linh mục mới 22  tuổi.
 
 Lớp này có 12 linh mục, 11 Cha được cử sang Phương Đông  truyền giáo ngay, còn Cha Vê-na vì mới ốm, còn yếu, phải nghỉ lại uống  thuốc Cha buồn và theo thói quen, mỗi khi gặp sự khó, Cha thường chạy  đến kêu xin Đức Mẹ. Đức Mẹ đã nhận lời. Ngày 20.9.1852, ngày xuống tàu,  một cha đi phép ngăn trở không về kịp nên bề trên dạy Vê-na đi thay,  sang Hồng Công ở nhà chung nghỉ uống thuốc, bao giờ khoẻ sẽ đi truyền  giáo.
 
 Sau ba tháng vượt biển, cha Ve-na đến Phố Mới, ở lại đây  ba tuần chờ tàu đi Hồng Công. Cha ở Hồng Công độ non một năm, dạy học  rồi được cử sang truyền giáo ở địa phận Tây đàng Ngoài.
 
 Ngày  26.5.1854, Cha Vê-na cùng với Cha Lơ-gơ-răng (Tràng) rời Hồng Công đi Ma  Cao chờ tàu người Trung Quốc sang Việt Nam, vì từ thời vua Minh Mệnh,  tàu các nước âu châu không được vào buôn bán ở đây. Cha Vê-na nghỉ lại  Ma Cao chừng một tuần lễ. Ma Cao xưa kia rất thời danh, quen gọi là Ngọc  Phương Đông, là một giải đất chạy ra biển ở tỉnh Quảng Đông, các người  Âu Châu đến đây buôn bán, lập ra phố xá sầm uất, nhà cửa rộng lớn, nhiều  nhà thờ nguy nga, có chủng viện có dòng Tên, dòng Thánh Đa Minh và  nhiều dòng khác nữa. Các Cha thừa sai sang phương đông truyền giáo  thường qua Ma Cao. Bây giờ Ma Cao vắng vẻ, vì cửa bề bồi lâu, tàu lớn  không vào được.
 
 Ngày 2.6.1854, tàu mới nhổ neo, lần này có 70  tàu cùng đi nên không sợ cướp biển. Người Trung Quốc ghét người Âu Châu,  thường gọi là quỷ trắng nên các cha thừa sai bị chúng khinh dẻ, chửi  rủa. Cha Vê-na viết thư về quê kể lại rằng: “Tôi đi tàu Trung Quốc thì  khổ sở trăm đường. Chúng cho Cha Tràng và tôi ở dưới lòng tàu trong một  xó tối tăm hôi hám đầy thạch thùng, rết rệp, chật chội, thấp lắm chỉ nằm  hay ngồi cả ngày đêm không đứng được. Chúng tôi không được lên sàn tàu,  thỉnh thoảng lên cho thoáng là chúng chửi rủa bắt xuống ngay. Chúng  mắng mỏ chúng tôi luôn: khi không có gió, lúc gió to, nhỡ nhàng việc gì,  mọi người không hay là chúng đổ tội cho chúng tôi hết”.
 
 Hai  mươi ngày sau tàu đến cửa Cấm, đậu gần đồn Hải Phòng. Quan quân xuống  khám nhưng vì hai Cha ẩn kín, nên không bị bắt. Ban đêm họ đạo ở đây  xuống thuyền chở hai Cha về chỗ Đức Cha Hi-le (Hy) là Đức Cha phó địa  phận Đông rồi đến chỗ Đức Cha chính là Đức Cha Hec-mô-di-la (Liêm). Ngày  13.7. Tự Đức thất niên hai Cha mới tới Kẻ Vĩnh.
 
 Những vất vả,  ốm đau trong cánh đồng truyền giáo
 
 Cha Vê-na nghỉ ở Kẻ Vĩnh  gần hai tháng rồi đến Chủng Viện Kể Doãn học tiếng. Cha học rất nhanh,  mới có một tháng đã nói sõi và giảng cho bổn đạo. ở đây chưa được hai  tháng, cha bị cúm nặng, uống thuốc đỡ, cha sang Kẻ Đầm đổi khí. Đến lễ  Các Thánh dù còn yếu, cha cũng cố gắng làm lễ. Hàng xứ tổ chức lễ linh  đình trọng thể, có tiếng kèn rước cha vào nhà thờ, nhưng chính tối hôm  ấy, cha vừa nằm nghỉ, đã có người vào đánh thức cha chạy trốn ngay vì  quan đến vây làng. Cha sang làng gần đấy độ một tuần rồi về chủng viện  Hoàng Nguyên ở với Cha Chính Nam. Mới đến đây được mấy ngày, bệnh lao và  bệnh suyễn của Cha Vê-na lại tái phát vì những ngày phải lội nước, lội  bùn, và trong vòng hai tuần bệnh trở nên trầm trọng, cha phải chịu phép  xức dầu. Đức Cha Rơ-to nghe tin, sai ông cả Thuần ở Ninh Bình, là ông  lang nổi tiếng đến chữa bệnh cho Cha, ban đầu bệnh bớt nhiều, nhưng sau  nặng đến nỗi cha bị bại liệt, không cử động, không nói được. Cha Chính  Nam mời các thày danh sư trong miền mà bệnh không bớt. Thấy thế, Cha  Chính khuyên Cha Vê-na làm tuần 9 ngày kính Trái Tim Chúa Giêsu, Trái  Tim Đức Mẹ và Thánh Giuse xin khỏi bệnh. Bệnh Cha giảm dần và sau 20  ngày có thể làm lễ, xem sách học hành và giải tội cho học sinh.
 
 Năm Tự Đức bát niên ( 1854), Cha Vê-na ăn tết ở nhà trường Hoàng Nguyên  với Cha Chính Nam, khoảng rằm tháng riêng có tin báo nhà trường Kẻ Non,  Kẻ Vĩnh bị vây, Đức Cha Rơ-to và các Cha phải trốn vào rừng hết, quan  quân sắp xuống vây nhà trường Hoàng Nguyên, vì thế hai cha không giám ở  đây, đi ẩn nay họ này mai họ khác.
 
 Trong thời cấm cách luôn phải  nghe tiếng dữ, phải trốn tránh vất vả, tính tự nhiên ai cũng sợ hãi  rụng rời, nhưng Vê-na lại tỏ ra can đảm lạ thường, vui vẻ vì cha hằng  mong được phúc tử đạo.
 
 Sau cùng hai cha về ở ẩn ở dòng Mến  Thánh Giá Bút Đông trong một gian chật hẹp không có cửa sổ, cửa ra vào  đóng cả ngày, chỉ hé mở mọt chút cho ánh sáng lúc đọc kinh sách.
 
 Cơn bão táp đợt này nổi lên có vẻ gay gắt nhưng được ít lâu giảm dần,  không ai bị bắt và bị xử, Nhà Chung, nhà trường không bị phá, chỉ phải  xuất nhiều tiền bạc cho các quan, nên các quan làm ngơ. Đức Cha Rơ-to  lại về Kẻ Vĩnh, Đức Cha Tơ-ren (Đông) lại về nhà trường Kẻ Non.
 
 Cha Nam về Hoàng Nguyên trước, còn Cha Vê-na ở lại Bút Đông 15 ngày. Vì  Cha vốn ốm yếu, lại ẩn trốn nhiều nơi, tù hãm lâu ngày nên sức khoẻ càng  sa sút trầm trọng, ngày thứ tư tuần thánh, Cha đi bộ về Hoàng Nguyên  gặp ngày mưa rét, lại lội bùn lội nước, bị cảm hàn nặng tưởng chết,  nhưng sau được bình phục và Đức Cha Rơ-to dạy Cha về Kẻ Vĩnh uống thuốc.
 
 Đầu năm Tự Đức cửu niên là năm 1856, Cha Vê-na đã đỡ bệnh có thể giúp  tuần đại phúc vào đầu mùa chay do Đức Cha Rơ-to tổ chức rất trọng thể ở  Kẻ Vĩnh cho các Thày Đại Chủng Viện, các chủng sinh và bổn đạo. Ngoài  Đức Cha ra, có năm Cha thừa sai và sáu Cha Việt Nam giúp. Mỗi ngày có  bốn bài giảng, nghe sách cả ngày, xưng tội suốt đêm, dù có đến 14 toà  giải tội; cuối tuần đại phúc tổ chức cuộc rước kiệu chung quanh làng.
 
 Rồi Cha Vê-na theo Đức Cha Rơ-to mở tuần đại phúc ở Bái Vàng và cử hành  Lễ Phục Sinh trọng thể. Sau những ngày vất vả đó, Cha về Kẻ Vĩnh nghỉ  ngơi cho hồi sức. Dịp lễ Thánh Phêrô quan thày Đức Rơ-to năm ấy, Đức Cha  Tơ-ren và các Cha thừa sai về mừng, cấm phòng 8 ngày, bàn bạc các việc  trog địa phận, các Cha nghỉ độ 10 ngày rồi mỗi người đi mỗi ngả. Một  trận lụt lớn xảy đến ngập cả Nhà Chung, Đức Cha và các Cha phải chạy vào  nhà thờ và hai nhà thương. Đúng kỳ này, Cha Vê-na lại phải chứng thương  hàn có nguy chết, sau nhờ lời cầu xin với Thánh Phêrô An-căng-ta-ra thì  khỏi. nhưng còn bệnh lao và bệnh suyễn ngày càng ra nặng hơn phải nhờ  cụ lang Điều châm cứu từ đỉnh đầu đến bàn chân 500 huyệt rất đau đớn thì  bệnh lao gần như khỏi hẳn, còn suyễn giảm đi rất nhiều.
 
 “Sẽ  phải vác Thánh giá nặng và chịu gian nan khốn khó cho đến chết”
 
 Trước khi sang Việt Nam, một đêm Cha Ve-na nằm mơ mình đang quỳ dưới  chân cây Thánh giá rất lớn và trên một đỉnh núi gần đấy, Đức Mẹ hiện ra  chỉ cây Thánh giá, phán rằng: Hỡi con, con sẽ phải vác Thánh giá nặng và  chịu gian nan khốn khó cho đến chết”. Lời tiên tri này đã thực hiện.  Mới đặt chân đến miền truyền giáo được ba năm, Cha đã phải chịu một  Thánh giá nặng là cơn bệnh trầm trọng giày vò, sống đi chết lại vì không  hợp thuỷ thổ, Chúa và Đức Mẹ đã chữa Cha khoẻ mạnh lại để chuẩn bị cho  Cha vác cây Thánh giá khác nặng hơn mà phải vác cho đến chết: Cha bắt  đầu đi coi xứ và chịu đựng một cơn bách hại dữ dằn nhất trong lịch sử  bách hại Giáo Hội ở Việt Nam.
 
 Ngày 27 tháng giêng năm Tự Đức  thập niên (1857), Cha Ve-na về nhà chung Kẻ Vĩnh, quan quân kéo đến khám  Nhà Chung, Cha phải chạy ra ẩn nhà bà Ruyễn, Cha Phao-lô Tịnh, Thày  Lương và Chánh, Phó lý trưởng bị bắt giải lên Nam Định. Gần hai tháng  sau, Cha Thịnh phải sử, xác đưa về làng Vĩnh Trị chôn ở nền nhà thờ  Thánh Phê-rô.
 
 Ngày 2-2 quan Nam Định đưa 1000 quân, hai voi, hai  khẩu súng thần công về vây làng Vĩnh Trị, Cha Ve-na cùng với Đức Cha  chạy xuống thuyền trước và dạy các chú chạy cả đồ đạo lẫn người nên khi  quan đến chỉ có nhà không. Quan nhận hai ba chục nén bạc, truyền rỡ nhà  thờ ông Thánh Phê-rô trong nhà trường, nhà thờ Đức Bà ở ngoài làng và  mấy gian nhà trong nhà Chung rồi kéo quân về. Đức Cha và các Cha không  thể ở lại Kẻ Vĩnh được, thì đi ẩn ở nơi khác, Cha Ve-na về Hoàng Nguyên.
 
 Được ít lâu Cha Chính Nam qua đời, Đức Cha Rơ-to thấy Cha Vê-na đã khoẻ  mạnh khá và giao cho Cha coi sóc miền Cha Chính. Từ khi đến Việt Nam,  Cha Vê-na ốm đau luôn chỉ ở Nhà Chung, nhà trường uống thuốc, học hành,  xem sách, thỉnh thoảng rửa tội cho bổn đạo chưa đi coi xứ, nên khi nhận  trách nhiệm nặng nề này Cha lo sợ, trong thư viết về quê, Cha kể rằng:  “Đức Cha giao cho tôi miền Cha Chính coi sóc. Miền này có một vạn hai  ngàn quân danh chia làm bốn xứ, mỗi xứ có hai hay một Cha. Việc của tôi  là coi sóc bốn xứ này, đi làm phúc các họ khô khan, mắc rối, làm phép  thêm sức, thỉnh thoảng cấm phòng cho xứ, tha các ngăn trở hôn phối, coi  sóc người nhà Đức Chúa Trời, nhất là nhà dòng nữ..”.
 
 Giữa năm Tự  Đức cửu niên và đầu thập niên (1856 – 1857), có tàu Pháp đến cửa Hàn  (Tourane) xin buôn bán và xin tha đạo, vua thấy chỉ có hai tàu nên từ  chối. Quân Pháp thấy vua không bằng lòng lại khinh dể làm sỉ nhục thì  bắn phá đồn Sơn Trà rồi bỏ đi. Từ bấy giờ vua lại càng gét đạo hơn.
 
 Năm 1858, một năm khủng khiếp, Cha Vê-na bỏ Hoàng Nguyên đến làng Bút  Đông ẩn trong nhà dong Mến Thánh Giá. Khi nào sợ lộ thì Cha ra ẩn, những  nhà giáo hữu rất trung thành và cũng rất nghèo, là nhà các ông Hộ, Kỳ,  Cung cũng có tên là Quang là bố Cha Tuyên. Những nhà này thường có hầm  hay có vách khép để Cha ẩn trốn.
 
 Một hôm, Cha Ve-na đang ở nhà  ông Hộ thì quan Huyện Nam Xang cùng đi với ông Tần cia tổng phúc Châu  đến vây. Biết ông Tần bênh chữa người có đạo nên ông Hộ gặp riêng và nói  thật nhà mìnhcó Tây dương đạo trưởng. Nghe thế, đến ngòi giữa nhà ông  Hộ rồi sai quân mình đi cùng quan huyện lục soát các nhà trong làng,  nhưng không bắt được ai.
 
 Nhiều lần vây làng Bút Đông, không bắt  được ai. Quan huyện Nam Xang giận nên sai quân về khám xét khuấy khuất  luôn. Khi nào nghe tin ngày mai quan về vây làng thì tối hôm trước,  người thì chạy sang làng khác, người chạy ra ngoài đồng chịu mưa, chịu  rét, chịu đói cả đêm cho đến trưa mai.
 
 Một hôm ông cai Tần sai  người nhà sang Bút Đông bảo các người đàn anh trong làng phải liệu cho  ông Tây đi nơi khác, kẻo xả ra việc không hay, có thể cho sang ẩn ở Phúc  Châu, ông sẽ cho người sang đón. Bấy giờ đang cấm đạo rất ngặt, Cha  Vê-na không biết đi đâu, đành phải sang Phuc Châu.
 
 Phúc Châu là  làng ngoại đạo, cả làng làm nghề ăn cướp, ông cai TTần cúng là tướng  cướp có quyền có tiếng trong huyện, dù quan cũng phải kính nể, Ông và cả  làng che chở người có đạo, và khi cấm đạo ngặt thì làng này chứa các  Cha, các Thày và các nhà dòng.
 
 Lòng nhiệt thành cứu các linh  hồn.
 
 Cha Vê-na ở Phúc Châu bình yên mới được một tháng, Cha  đòi về kẻ Bèo, đến ở nhà bà nhiều Căn, một bà goá có lòng đạo đức, sẵn  lòng để Cha Vê-na và các Thày ở nhà bà.
 
 Cha về làng được ba ngày  đã mở tuần đại phúc. Cha giảng giải độ 5,6 hôm mà người ta vẫn khô khan  thì truyền cả họ phải ăn chay một ngày để cầu nguyện. Chính Cha cũng ăn  chay rồi cấm phòng cho cả họ một tuần. Cha bắt các người đàn anh trong  làng phải phá bàn thờ rồi họ phải lập ở đình rồi mới giải tội cho. ít  nhiều kẻ khác cũng lập giường thờ ở nhà riêng, Cha gọi đến khuyên bảo  hai ba lần, sau họ cũng vâng lời phá đi.
 
 Thấy nhiều người xưng  tôi chịu lễ, Cha rất mừng, dạy fỗ người ta cặn kẽ cách giữ đạo. Ai nghèo  đói Cha cho tiền ăn mầy ngày để ở nhà lo việc linh hồn.
 
 Bị  bắt trong vách kép
 
 Ơ Kẻ Bèo, tình thế cũng không ổn, Cha đã  đưa tin cho họ Bút Đông cử người sang đón, Cha chưa kịp đi thì đã phải  bắt.
 
 Một người họ hàng với bà nhiêu Căn đã tố giác Cha Vê-na vậy  có ông Tuần đồ, người làng Lê Khoai, tổng Đội Sơn cùng với con rể là  Cai Tổng Đồng Bào tên là Phan, hồi ấy đang lụt lội, đi năm, sáu chiếc  thuyền với 20 người đến bắt Cha.
 
 Hôm ấy là ngày 30.11.1860 cũng  là ngỳa 18.10 năm Tự Đức thập tam, hội 9giờ sáng, Cha Vê-na và Thày  Khang đang ngồi nói chuyện, bà nhiêu Căn vội vàng vào báo: “ Thưa Cha,  xin Cha trốn ngay, đầy tớ cai tổng đã vào đến cổng”. Cha Vê-na và Thày  Khang chạy ngya vào buồng, cài then kỹ lưỡng. Buồng này có hai cửa thông  ra hè, một cửa ra gian nhà giữa. Buồng có hai gian, một gian kề giường  Cha Vê-na, một gian quây ba cót lúa nơi Thày Khang nằm nghỉ. Sau cót lúa  là vách kép có cửa trát cẩn thận, ai không biết tưởng là vách liền.
 
 Tuần Đồ vào ngồi giữa nhà, còn đầy tớ ông cầm giáo mác thừng chão canh  trước nhà, vì đàng sau nhà không có cửa lại ngập nước, có muốn trốn cũng  không được.
 
 Tuấn Đồ gọi bà nhiêu Căn bảo: “ Ơ đấy chứa đảo trưởng  tây, phải đưa nộp ngay”. Bà trả lời: “Thưa ông, tôi mẹ goá con côi, làm  sao giám chứa tây dương đạo trưởng”?
 
 Đừng sợ, đưa ông tây ra đây,  ta không có ý bắt đâu, ta muốn chi cho ông chỗ ẩn kín hơn.
 
 - Tôi mẹ  goá con côi không biết việc nay, xin ông hỏi các đàn anh trong làng.
 
 Tuần Đồ cứ hỏi đi hỏi lại rất lâu.
 
 Cha Vê-na và Thày Khang ngồi  trong buồng, lo âu ngồi lắng nghe. Rồi ông Tuần Đố hét lớn: “ Có Tây  dương đạo trưởng mới ở Kim Bảng đến, sao còn trốn”?
 
 Nghe thấy  thế, Cha Vê-na biết ngay là Tuấn Đồ, vọi bảo Thày Khang: “Tuần Đồ! phải  thu giọn đồ đạc ngay”. Hai Cha con xếp đồ lễ vào thùng khiêng để trong  vách kép, rồi lại ra nghe ngóng.
 
 Một giờ chôi qua bà nhiêu Căn  khăng khăng nói không có ai. Tuần Đồ ra lệnh phá của buồng. Cha Vê-na  vào ẩn trong vách Kép. Đầu tiên họ phá cửa bên trong, nhưng chắc qua,  không phá nổi, họ phá cửa thông ra ngoài hè, mấy phút mở toang, Thày  Khang ra mặt, họ túm lấy Thày lôi đến trước mặt Tuần Đồ. Ông này hỏi:  “Anh là đạo trưởng hay là đầy tớ đạo trưởng?”
 
 - Tôi là đầy tớ đạo  trưởng.
 
 - Ơ đây có đạo trưởng nữa không?
 
 - Chỉ có tôi, không có đạo  trưởng.
 
 Tuần Đồ quát: “chúng may hãy phá vách!”
 
 Họ kéo đến phía  vách, bắt được Cha Vê-na.
 
 Tưởng được lởi ai ngờ lỗ vốn
 
 Tuần Đồ đưa hai Cha con xuống thuyền trở đi ngay. Thày Khang ngồi ở mặn  thuyền, không trói, còn Cha Vê-na, họ trói vào thang thuyền dứt chặt.  Tuyền ra khỏi làng Kẻ Bèo, Thày Khang nói với Tuần Đồ: “Ông trói Cha tôi  ngặt quá, xin nới ra ít chút”. Vừa nói Thày cừa cởi trói, người chèo  thuyền giơ mái chéo lên quát: “Buông ra ngay không ta đánh bây giờ”.  Thày Khang phải thôi. Một lúc sau Tuần Đồ nghĩ lại, truyền cởi trói Cha  Vê-na, mời Cha vào ngồi khoang thuyền với ông. Ơ đây có lò sưởi vì trời  rét lắm, Tuần Đồ mời Cha ăn trầu, hút thuốc. Cha hút thuốc và nói với  Tuần Đồ: “Xin ông cai thương dân, đừng khai oa gia kẻo hại dân”. Tuần Đồ  im lặng. Cha nhắc lại, Tuần Đồ đáp giọng cứng cỏi: “Lúc nào tôi cùng  thương dân, chỉ các ông làm hại dân; con rể tôi thật khánh kiệt”.
 
 Lời trách móc này nhắc lại việc đã xảy ra năm trước. Con rể ông Tuần Đồ  là ông cai Phan làm cai tổng đồng bào. Họ Kẻ Bẻo gửi gánh đồ đạo ở nhà  một người ngoại xã ấy. Có người tố cáo với cai Pha, ông này bắt hai gánh  đưa về nhà mình rồi đưa tin cho Kẻ Bèo đem 200 quan tiền sang chuộc. Họ  Kẻ Bèo đó là mưu mô bắt người không giám sang. Cai Pha thấy thế đưa các  đồ này vào để trong Chùa. Một người ngoại thù ông tố giác với quan phủ.  Quan Phủ bắt các thứ ấy lên Tuần Đồ phải chạy tiền với quan phủ và quan  Hà Nội hết 24 nén bạc, cai pha mới khỏi tội và vì thế ông này sạt  nghiệp.
 
 Lần thứ 3, Cha Vê-na: “Xin ông cai thương dân”. Thày  Khang hiểu ý ông này đòi tiền thì hỏi:
 
 “Ông bắt Cha con chúng  tôi nộp quan hay có ý gì khác?” Nghe thế ông Tuần tươi mặt nói: “ các  ông liệu được 100 nén bạc không những tôi sẽ tha ngay, lại tìm cho các  ông nơi ẩn trốn vững chắc”. Thày Khang nói câu sách nho rằng: “Người  nhân đức tìm làm việc nghĩa hơn là tìm mối lợi, còn người tìm mối lợi  hơn là việc nghĩa là kẻ ô nhục, ông cai chọn đàng nào?”
 
 - Tôi xin  chịu nhục, các ông liệu cho tôi 100 nén bạc, tôi sẽ xử hẳn hoi với các  ông.
 
 Đến làng Lê Khoai, tuần Đồ đưa Cha Vê-na về nhà mình, làm  tời báo quan Phủ Lý rồi mổ lợn ăn khao. Đến tối thông lại, đội lệ 20  lính đến thì ông làm cơm thết họ và mời Cha cũng nhồi năn chung với  thông lại, đội lệ và cả ông nữa. Hôm ấy là ngày chay nên ông dọn cá vì  Cha không ăn thịt.
 
 Hôm sau, Cha ngồi trong cũi, Thày Khang vai  mang gồng, bị giải lên tỉnh Phủ Lý.
 
 Quan Phủ tỏ vẻ kính Cha, cho  Cha ở ngay công đường không phải vào trại giam, và cho sang cũi khác  rộng và cao hơn, đeo xiềng nhẹ. Đến bữa ăn lại cho hai Thày Hân và Lệ ở  địa phận Bùi Chu đang phát lương ở phủ làm cơn cho Cha. Quan cho mọi  người vào thăm tự do. Thấy Cha còn thanh niên, hình giáng thanh lịch,  nét mặt tươi vui, ăn nói hoà nhã thì thương lắm, nhất là em quan phủ đến  thăm Cha luôn, dỗ Cha khoá quá để khỏi phải chết sớm mà phí hoài.
 
 Bốn hôm sau, độ hơn 50 lính ở Hà Nội xuống giải Cha lên tỉnh. Quan phủ  sợ bổn đạo đánh tháo giữa đường, lấy thêm lính phủ và quân của Tuân Đồ.  Tuâm Đồ phải chịu các khoản tri phí dọc đường, nên trong vụ này ông lỗ  mất 12 nén bạc. còn 300 lạng vàng thưởng thì các quan ăn cả. Khi chưa  bắt Cha Vê-na, ông rất giàu có, sau khi bắt Cha, ông xa sút dần. Tưởng  được lợi lớn, ông đã mở tiệc ăn khao, ai ngời phải lỗ vốn, thua to.
 
 Tù Phủ Lý đến Hà Nội phải đi mất 2 ngày. Cha Vê-na ngồi trong cũi có 8  người khiêng, thày Khang đeo gông đi trước. Dọc đường người ta kéo ra  xem rất đông, ai cũng động lòng thương. Đến Thưòng Tín, quan phủ truyền  đóng quân lại vì quan muốn xem mặt Cha Vê-na, quan đến bên cũi hỏi Cha: “  Ông là người nước nào? Pháp, Tây Ban Nha hay Ma-lắc-ca? Cha đáp: “Ông  làm quan ở nước này có đi đến đâu mà biết các nước Pháp, tây Ban Nha và  Ma-lắc-ca, ông hỏi làm gì? có muốn xem mặt tôi thì xem, đừng hỏi gì  tôi”.
 
 Tôi xin chết vì người Việt Nam.
 
 Ngaỳ  06.12.1860, Cha Vê-na đến Hà Nội. Cũi Cha đi qua lối cửa đông ở giữa cửa  có đóng một cây Thánh giá, Cha đòi phải bỏ đi, lính không chịu, cứ  khiêng cũi đi. Cha thấy vậy giẫy giụa đổ nghiêng cũi lên lính phải tháo  Thánh giá ra. Lính khiêng cũi thẳng vào dinh quan án trong một là thư  viết về quê, Cha kể lại cuộc thẩm vấn đầu tiên như sau:
 
 Quan án  đưa cho tôi một chén nước chè, tôi cám ơn và uống ngay trong cũi. Rồi  quan bắt đầu hỏi cung tôi theo lệ thuờng.
 
 - Ông tên là gì? Quê ở đâu?
 - Tên tôi là Gio-an Tê-ô-phan Vê-na quê nước Pháp.
 - Ông đến đây làm  gì?
 - Tôi đến giảng đạo thật cho những ai chưa biết.
 - Ông bao  nhiêu tuổi?
 - 32 tuổi.
 
 Quan tỏ vẻ thương hai nói: “còn trẻ quá!”  Rồi quan lại hỏi tôi: “ai sai ông đến đây?”Tôi đáp: “Không vua quan  nào sai tôi, tự ý tôi tình nguyện đi giảng đạo mà bề trên sai tôi sang  giảng đạo nước này.”
 
 - Ông có biết đạo trưởng Liêu (Rơ-to) không?
 - Tôi biết.
 - Ông có biết đạo trưởng Liêu viết thư cho các tướng ngụy mộ  dân theo đạo Gia-tô làm giặc chông lại triều đình không?
 - Thưa quan  ai đã nói điều ấy.
 - Tổng đốc Nam Định.
 - Thưa quan lớn, tôi cúng  nghe nói tổng đốc nam Định bắt được các thư ấy, nhưng tôi giám chắc đó  là thư mạo vì Đức Cha Liêu chúng tôi là người khôn ngoan, không đời nào  làm việc dại dột ấy, chẳng những thế Người đã dạy các đạo trưởng thược  quyền người cầm bổn đạo không được theo giặc.
 - Ai sai lính tây  đánh cửa Hàn (Tourane) và gia đình?
 - Thưa quan lớn, Tôi cũng nghe đồn  thổi tin ấy, nhưng tôi không rõ tàu ai, vào có ý gì.
 
 “Tôi vừa nói  xong thì quan thượng vào, vừa ngồi ông nói to tiêng rằng:
 - Đạo trưởng  Gia-tô, ông có nét mặt rạng rỡ, sắc sảo. Ông đã biét luật pháp nước Nam  cấm những người tây không được giảng đạo, nếu không tuân, bị bắt sẽ  phải giết mà ông còn dám sang ư? Tại các ông, tàu Tây mới sang đánh  nước này. Ông phải khai cho thực, nếu không ta sẽ tra tấn.
 - Thưa quan  lớn, quan hỏi tôi hai điều này: Một là tôi biết luật nước cấm người Tây  không được đến giảng đạo cho dân này, sao còn giám giảng? Vâng, tôi biết  luật này nhưng Thiên Chúa truyền tôi phải giảng đạo cho mọi dân mọi  nước. Đã rõ chung tôi phải vâng lệnh vua Chúa thế gian nhưng chúng tôi  phải vâng lệnh Chúa trên trời trước. Hai là tôi không xui tàu Tây sang  đánh nước này, nên không phải tại tôi.
 - Ông đi bảo tầu Tây đừng  đánh nữa, ta sẽ tha cho ông.
 - Thưa quan lớn, tôi không có quyền bảo  tầu Tây về. Tôi có bảo, họ cũng không nghe. Nhưng nếu quan muốn, tôi ra  đi, nếu không được việc, tôi xin về đây chịu chết.
 - Ông không sợ chết  ư?
 - Thưa quan lớn, tôi sang đây chỉ có giảng đạo thật, tôi không  phạm tội nào đáng chết. Nếu các quan có xử tôi, tôi xin chết vì người  Việt Nam.
 - Ông có giận ghét người đã bắt ông không?
 - Thưa quan lớn  không, đạo tôi dạy phải thương yêu những người ghét mình, làm hại mình.
 - Ông không khai những nơi ông ẩn trốn.
 - Thưa quan lớn, quan là cha  mẹ dân, tôi đã đi nhiều nơi, ẩn nhiều nhà, tôi chỉ đi giảng đạo,chẳng  làm việc gì khác, tôi có khai ra chỉ hại dân, con cái quan lớn, xin quan  lơn tha cho tôi điều này.
 - Thôi ông đạp Thánh giá đi khỏi phải chết.
 - Thưa quan lớn, tôi đã giảng đạo Thánh giá cho đến bây giờ, lẽ nào tôi  đạp Thánh giá. Tôi thà mất sự sống, chịu chết chẳng thà bỏ đạo” Cha vừa  nói vừa cầm ảnh hôn.
 “Quan lại nói:
 - Nếu ông không sợ chết sao  ông lại ẩn trốn?
 - Thưa quan lớn, đạo chúng tôi không được cậy sức  riêng mình, không được tự nộp mình khi có thể chạy được. Vì thế tôi ẩn  trốn nhiều nơi”.
 
 Cha thưa lại những lời lịch sự hẳn hoi, vẻ mặt tươi  vui rạng rỡ nên các quan nể Cha, không nỡ đánh đập như các đấng khác.
 
 Quan vừa hỏi cung xong thì có Đỗ Tú là người tham chức quyền giàu sang,  đi bắt đạo, năm Tự Đức thập nhị niên trong vòng một tháng ông đã bắt  được bốn Cha, đã được thưởng 400 lạng bạc và bằng cửu phẩm, ông hỏi Cha  Vê-na rằng: “Ông có biết rõ Cố Đông (Tơ-ren) bây giừo làm giám mục ở  đâu? Tôi muốn biết mặt ông ấy mà chưa đựơc gặp”. Cha Vê-na bảo ông: “Ông  làm nghề bắt đạo thì hèn lắm, ông phải biết bằng cửu phẩm ông đã được  thì chẳng khác gì hoa mùa xuân, sớm nở tối tàn chẳng được bao lâu”, Các  quan và mọi người đều cười và không tin. Nhưng lời tiên tri này thực  hiện. Năm năm sau khi bắt được bốn đạo trưởng, Đô Tú lên làm chủ kho Phủ  Lý, nhưng vì tiêu vào tiền công khố, nên phải tội. Cửa nhà bị tịch thu,  phải sung quân, rồi phải bệnh chết khốn nạn.
 
 Hỏi cung xong, các  quan bắt Cha làm tờ khai để theo đó mà dựng án. Trong tờ khai không nói  đến một ai vì cứ theo lời Tuần Đồ là bắt được hai Cha con thuyền nhỏ  giữa sông. Thày Khang viết, Cha Vê-na ký. Các quan bắt phải viết là  Gia-tô tả đạo, nhưng Cha cương quyết không chịu, nên các quân cũng thôi.
 
 Khai xong, các quan khép Cha phải án trảm quyết, bêu đầu Cha ba ngày  rồi ném xuống sông, Thày Khang là đạo đồ bất khẳng khoá quá phải phát  lưu Hưng Hoá.
 
 Những ngày đợi chờ phúc tử đạo.
 
 Tra  hỏi xong, Cha Vê-na phải giam trong cũi ở dinh quan Tổng Đốc, không  phải đưa vào trại, vì cũi trước thấp bé chật hẹp nên quan truyền thay  cũi khác rộng rãi hơn, Cha đứng được trong ấy chỉ phải cúi đầu xuống một  ít. Trong cũi trải chiếu hoa, chung quanh cũi đóng bốn cọc, chằng giây  để người ta khỏi đến gần.
 
 Có ba đội lính để thay đổi canh gác,  thỉnh thoảng Cha được ra ngoài đi bách bộ, giờ cơm Cha ăn cơm ở ngoài,  ai xin vào thăm cũng được. Lính canh đối sử lịch sự tử tế với Cha. Khi  mới phải giam, quan phát mỗi ngày sáu tiền để làm cơm cho Cha, nhưng sau  Cha thấy không tiện nên nhờ cai đội xin quan để bổn đạo thu xếp lấy lẽ  không quen làm cơm nên ông Tây không ăn được, sịư sinh bệnh sẽ chết  trong cũi. Từ đấy Thày Lễ là người Đức Cha cử coi sóc các tù có đạo ở  Nam Định giao cho bà Nghiêm ở trong thành làm cơm.
 
 Quan Tổng đốc  Hà Nội Hoàng Văn Thu là người tốt có lòng thương dân, rất kính trọng  Cha Vê-na. Ông không hành hạ Cha lại hay dọn cỗ mời Cha. Trong hai tháng  bị giam cầm, Cha không bỏ phí thời giờ, không tiếp khách thì Cha đọc  kinh, lần hạt, đi bách bộ. Ông bếp Khánh kể lại rằng: “Cha Vê-na đạo đức  sốt sáng lắm, lần nào tôi có việc đến gặp Cha thì thường gặp Cha đang  đọc kinh. Sáng tối Cha hát La-Tinh, lúc nào Cha cũng vui tươi.
 
 Bị giam 20 ngày, Cha Vê-na viết thư xin Đức Cha Tơ-ren lo liệu cho mình  được xưng tội chịu lễ. Đức Cha đang ẩn ở Kẻ Trừ, dạy Cha Thịnh Phó xứ Kẻ  Sét đi giải tội và kiệu Mình Thánh Chúa cho Cha Vê-na, Đức Cha dặn Cha  Thịnh nhờ ông Phao-lô Hương Mới, đầy tớ quan án thu xếp. Việc này rất  nguy hiểm vì có các cửa thành đều đóng Thánh giá, quan lại ra lệnh canh  phòng Cha cẩn thận không ai được đến gần. Ông Hương Mới đưa Cha Thịnh  đến giải tội cho Cha Vê-na bình an. Cha Thịnh mang Mình Thánh theo nhưng  không giám đưa cho Cha Vê-na sợ lộ. Cha giao cho bà Nghiêm, tối hôm ấy  bà đưa vào cho Cha Vê-na. Cha giữ trong người, chầu cho đến nửa đêm thì  chịu lễ.
 
 Cha Vê-na ước mong chóng đến ngày được đổ máu ra vì  Chúa Ki-tô. Không thấy án ở kinh ra, Cha thường bảo bà Nghiêm và bà Mẫn  là người quen đưa cơm vào cho Cha rằng: “Các Cha khá chỉ đợi non một  tháng, còn Cha đã gần hai tháng rồi, mà sắc chỉ vẫn chưa có, Cha cảm  thấy lâu lắm”.Thỉnh thoáng Cha cũng hay hỏi ông bếp Khánh và người nhà  quan đến thăm cho biết án mình đã ra chưa, khi náo có xin báo cho ngay.  Cha chờ bà Nghiêm may cho bộ áo mới trọng thể để mặc khi xử.
 
 Trong các thư viết từ giã Đức Cha, các người ân nhân đã chứa mình lâu  ngày, từ giã họ hàng, Cha tỏ ra lòng khát khao ngày chiến thắng, lời văn  khoé léo nhẹ nhàng vui tươi dù lúc đó đã gần ngày phải xử và phải viết  trộm vụng ban đêm.
 
 Bông hoa xuân chủ vườn muốn hái.
 
 Trong một lá thư viết từ giã Cha già, Cha Vê-na ví mình như bông hoa  mùa xuân mà lưỡi gươm tử hình chỉ là bàn tay ông chủ vườn hoa hái về  trưng bày. Đêm ngày 1.2.1861 án trong kinh ra tới nơi. án đề rằng: “ Tây  dương đạo trưởng Vê-na, 31 tuổi, đã biết luật nước Nam cấm đạo Gia-tô,  còn giám sang giảng đạo ấy để lừa dối dân. Đã phải bắt, tra hỏi nhận các  tội ấy. Tội nó đã rõ. Chiếu luật nó phải trảm quyết, bêu đầu ba ngày  rồi ném xuống sông”.
 
 Đức Cha Tơ-ren kể lại rằng: “Sang ngày  2.2.1861, Cha vê-n ăn sáng như thường lệ rồi đi bách bộ ngoài vườn. Bà  Nghiêm Theo Cha nói: “Thưa Cha, Cha phải xử hôm nay”. Cha Vê-na không  tin nghĩ rẳng mình phải điệu vào kinh. Bà này thưa: “Đúng là Cha phải xử  hôm nay, voi và lính đã xếp hàng tề chỉnh, lát nữa là Cha phải đưa đi  xử”. Cha tin, đi về cũi phân phát các đồ đạc mình cho người chung quanh.
 
 Lúc đó chị xin người Kẻ Sét, Cha Thịnh sai đưa Mình Thánh cho Cha Vê-na  chịu như của ăn đàng, vừa đến, chị thấy lính tráng thì sợ hãi lúng túng  tiến đến thẳng cũi định đưa ống đựng Mình Thánh cho Cha. Lính thấy thế  tưởng chị đưa thuốc độc, bắt trói và bắt cả ống đưng Mình Thánh. Bà  Nghiêm quen lính chạy và bảo: “Không phải thuốc độc đâu, đây là của  chúng tôi quen ăn sắp chết để về Thiên Đàng, chú không trả lại, chú sẽ  chết”. Cha Vê-na cũng bảo người lính ấy rằng: “Ai giám mở ống ấy ra sẽ  phải chết”, lính sợ quá đưa cho bà Nghiêm, bà nộp lại cho Cha Thịnh, vì  vậy Cha không được chịu lễ như của ăn đàng.
 
 Các quan đòi Cha lên  nghe án. Nghe xong, Cha nói mấy lời công khai tuyên bố mình đến đây dạy  đạo thật và mình chịu chết vì đạo này, cuối cùng Cha nói với các quan  rằng: “Ngày kia chúng ta sẽ gặp nhau trước toà phán xét”.
 
 Nghe  thế, quan án sợ hãi bảo: “Ông chết là tại ông, ta chỉ xin ông đừng oán  trách’’. cha Vê- navui vẻ trả lời: “Xin quan đừng lo, tôi sẽ cầu cho  các quan đươc phúc, xin các quan ở lại, tôi về thiên đàng ’’.
 
 Đoàn áp giả tù lên đường tới pháp trường, cha đi giữa bốn người lính cầm  gương. Quan giá sát đi trước, voi và hơn bốn trăm quân theo sau. Đến cửa  Bắc, Cah đồi phải cất Thập giá rồi mới đi qua. Quá cửa thành chừng 300  thước, Cha để tay lên ngực, đưa mắt nhìn chung quanh tìm Cha Thịnh giải  tội cho như đã hẹn trước, nhưng vì không được tin, Cha Thịnh không lên  kịp. Mọi khi quen sử tù ở ô cầu giấy, nhưng Cha Vê-na vì đầu phải vứt  xuống sông nên phải đi qua phố hàng đậu để rẽ ra bờ sông.
 
 Cha  mang xiềng, mặc áo the mới, nét mặt vui vẻ, hồng hào, vừa đi vừa hát La  Tinh to tiếng. Mọi người ngạc nhiên thán phục.
 
 Tới nơi sử lính  đóng vòng tròn, Cha Vê-na ở giữa, không ai được đến gần Cha, trừ bà  Nghiêm. Cha Vê-na nhìn đám đông tìm Cha Thịnh, vẫn không thấy. cha đưa  dép cho bà Nghiêm rồi ngồi vào chiếu, lính đến bẻ xiềng Cha. Lý hình  chém cha hôm đó tên là Tuế, lưng gù, có biếu, chông như phường chèo, tên  này trước đây đã sử bốn Cha.
 
 Anh đến nói với Cha Vê-na như quen  nói với các tù nhân thường: “Ông cho tôi mấy quan, tôi sẽ sử ông cho  mát mẻ”, nhưng anh nhận được câu trả lời rất khác thường: “Càng lâu,  càng tốt”. Thấy Cha mặc quần áo mới nguyên không dính máu, anh xin cởi  ra, trước Cha không bằng lòng, sau anh nói dối rằng: “Ông phải sử lăng  trì”. Bấy giờ chắc không phải Cha tin lời bịa đặt của anh, nhưng có lẽ  Cha cảm thương tên lý hình bất hạnh này, hay Cha muốn bắt trước gương  Thày Chí Thánh chết trần trụi trên thập giá, Cha cởi hết khăn áo, chỉ  còn mặc một cái quần. Sau đó, lính trói Cha vào cọc. Ba hồi chiêng lệnh  vừa dứt, lý hình chém nhát thứ nhất, đầu nghiêng bên vai, hai nhát sau  gươm gẫy, phải lấy gương khác. Chém hai nhát nữa đầu Cha Vê-na mới gục  xuống ngực, lưỡi gươm cong lên, lý hình lấy chân uốn gươm lại, cứ cổ Cha  mới đứt, anh tung đầu lên cho quan giám sát trông thấy. Ai dự buổi sử  cũng ngậm ngùi cảm thương tiếc sót người thanh niên tuấn tú khôi ngô.  Hôm ấy là ngày 2.2.1861, một ngày có sự trùng hợp lạ lùng, ngày sinh cho  nước trời của Cha Vê-na, ngày giáo hội mừng lế Đức Mẹ Dâng Con trong  Đền Thánh. Đức Mẹ cũng dâng người con yêu dấu của mình lên Thiên Chúa.
 
 Hôm  ấy trong các Thánh đường tưng bừng nến sáng, nếu Đức Tin trong ngày Rửa  Tội, phải chăng đó là tượng trưng cho cuộc tuyên xưng Đức Tin anh hùng  của Cha Vê-na. Hôm ấy các Thánh trên Trời vui mừng đón bông hoa xuân  tươi thắm chủ vườn hái về trang điểm cho thành Giê-ru-sa-lem mới.
 
 Dân sở tại lấy đầu Cha Vê-na đem bêu như lời quan truyền, cón xác Cha  nằm trên chiếu một lúc lâu vì chưa có quan tài; bà Nghiêm, bà Mẫn, cô  Ân, cô Lý và mấy bà có đạo ngồi bên xác khóc lóc to tiếng. Một người lái  buôn quê Nghệ An thấy xác Cha nằm trần thì thương, ông cởi áo đang mặc  phủ lên người Cha. Một lúc sau, bổn đạo họ trại phong đưa quan tài đến,  nhưng không có người đào huyệt. Ông Hương mới nói với ông Tài, người có  đạo xứ Kẻ Lường đang làm quyền xuất đội, xin ông giúp việc mai táng. Ông  này sai lính đào huyệt ở nơi sử, ngay cạnh bờ sông. Người ta liệm xác  Cha và khăn vải và chiếc chiếu cha quỳ khi phải sử.
 
 Tháng năm  sau Cha Thịnh sai hai ông Lý Vững và Hưng mới đào chộm xác đưa về Đồng  Trì. Đến khi tha đạo, Cha Chính Puy-gi-ni-ê (1) (Phước) bốc hài cốt Cha  Vê-na đưa về Kẻ Đầm, ghi từng cái một, nộp Đức Cha Găng-tê. Năm 1865 đưa  hài cốt về Pháp. Khi bốc xác Cha Vê-na có Cha Thịnh, Thày Lễ và ông  Hương Mới, có ông Lý Vững đã qua đời.
 
 Đầu Cha phải bêu ba ngày  trên ngọn cây luống cắm cạnh bờ sông. hai ông Lý Vững và Hương Mới tìm  cách lấy lại đầu Cha. Họ buộc mấy lưỡi cây vào ba bốn chục sải giây gai,  Hai lưỡi câu mắc vào tai cho vững, còn giây một đầu buộc vào lưỡi câu,  một đầu buộc vào tầu lá chuối làm phao. Hai ông bàn với dân sở tại và họ  đồng ý.
 
 
       
 Hài cốt Thánh Ven
 Đến  tối ngày thứ ba, quan huyện thọ sương đi bỏ đầu Cha xuống sông thuyền  chở ra đến giữa sông, ông này truyền bỏ đầu xuống. Người ta tung đàu  xuống thật nhưng giữu lại đầu giây buộc vào mạn thuyền. xong việc chèo  thuyền về, gần đến bờ có tiếng kêu: “Quan huyện đến khám, họ sợ quan bắt  được, kéo mạnh cho đứt dây, vì thế không tìm được đầu.
 Hai ông  Lý Vững và Hương Mới không thát vọng, họ thuê hai thuyền đánh cá rà dưới  sông hai ba ngay liền cũng không thấy. Tết đến, công việc phải bỏ dở.  Ngày 5 tháng giêng, ông Lý Vững thuê thuyền đi Hà Nội có ý đào trộm xác,  nhưng ngăn trở không thành. Khi thuyền trở về đến Vụng Nhót, lái thuyền  thấy có cái gì đó lập lờ trên mặt nước lúc đen lúc trắng thì bảo ông Lý  Vững ra xem là cái gì, ông này bảo chở thuyền đến đấy, lấy vợt vớt lên  đưa vào thuyền. Ông Lý nhận ra là đầu Cha Vê-na, chỉ còn lại một lưỡi  câu buộc ở tai bên phải với đoạn giây gai ngắn. Ông đặt đầu Cha vào túi  đựng tiền, đưa về nhà mình ở Đồng Trì, rồi báo tin cho Cha Thịnh ở Kẻ  Sét biết. Cha Thịnh xuống Đồng Trì ngay khi biết chắc là đầu Cha Vê-na  thì lấy vải liệm, cho vào một nồi đưa về cho hai Đức Cha đang ẩn ở Kẻ  Trừ. Đầu Cha Vê-na được rửa bằng nước hoa, lau chùi sạch sẽ, cho vào nồi  đất táng ở nhà ông Xạ xứ Kẻ Trừ.
 
 Năm 1879, Đức Thánh Cha Lê-ô  XIII phong Cha Tê-pha-nô Vê-na lên bậc đáng kính và ngày 2.5.1909, Đức  Thánh Cha Pi-ô X phong chân Phúc cho Người.
 
 Ngày 19.6.1988 Đức  Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn chân Phúc Tê-ô-Phan Vê-na lên bậc hiển  Thánh.
 
 Giuse Trần Văn Bắc (VietCatholic)
 
 
 	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất: |  |