|
Bài 2
Thánh Nhạc và những qui luật của Thánh Nhạc
I. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI THÁNH NHẠC :Theo Huấn thị “De Musica in Sacra Liturgia” số 4a thì
” Thánh nhạc là loại âm nhạc được sáng tác cho việc cử hành Phụng vụ, gồm được tính thánh thiện và hình thức tốt đẹp” (HT; “Concerts dans les Églises” số 6 (5.11.1987) ). Câu định nghĩa gồm hai phần rõ rệt :
1- Chủ đích của Thánh nhạc : là nhằm cho việc cử hành Phụng vụ, chứ không nhằm cho những sinh hoạt trần thế. Cho nên một số bài ca dù mang màu sắc tôn giáo, hay đặt lời đạo vào, mà tác giả không có ý “sáng tác cho việc cử hành Phụng vụ” thì không nên đưa vào trong thánh lễ mà hát. Thí dụ : + Những bài lieder của Schubert : Ave Maria, Tình ca, ...
+ Những bài của Brahms.
+ Những bài của Duval, Sourire, Cocagnac, ...
+ Symphonie số 9 của Beethoven, ... 2) Gồm những đặc tính để được gọi là Thánh nhạc : tính thánh thiện và hình thức tốt đẹp. Cho nên dù đã có chủ đích sáng tác nhằm cho việc cử hành Phụng vụ, mà một số bài ca thiếu những đặc tính của Thánh nhạc, thì cũng không nên sử dụng trong Phụng vụ. Huấn thị “De Musica in sacra liturgia” số 4b cũng phân loại Thánh nhạc như sau : 1- Ca điệu Gregorio (cũng gọi là Bình Ca)
2- Các hình thức khác nhau của thánh ca đa âm xưa và nay.
3- Thánh nhạc cho đại quản cầm và các nhạc khí đã được công nhận.
4- Thánh ca bình dân, phụng vụ và tôn giáo. (i) Ngày xưa Thánh nhạc chỉ gồm có 3 loại : Bình Ca, Nhạc đa âm, Nhạc cho đại quản cầm như đã nêu trên. Cả 3 loại này đều được sử dụng trong Phụng vụ của Giáo hội. Còn loại Thánh ca bình dân, không được kể vào Thánh nhạc. Chỉ kể từ Huấn thị “De musica sacra” (3.9.1958), loại Thánh ca bình dân mới được kể vào Thánh nhạc. (Đàng khác, các tôn giáo ngoài Công giáo, chẳng hạn như Thệ phản, chỉ có loại thánh ca tôn giáo mà không có loại thánh ca phụng vụ). (ii) Thông cáo của Ủy ban Thánh nhạc ngày 22.11.1970 đã phân Thánh ca bình dân phụng vụ và tôn giáo làm 3 loại : Phụng ca, Thánh ca, Giáo ca. Nói tỉ mỉ hơn, phải hiểu Thánh ca bình dân là những bài thánh ca bằng tiếng bản xứ, được chia làm hai loại : + Ca phụng vụ (Phụng ca) : những bài dùng trong Phụng vụ, lời là lời của bản văn Phụng vụ. Có 2 thứ: - Những bài thuộc nghi thức Phụng vụ như : Kinh Vinh danh, Thánh vịnh đáp ca, Ha-lê-lui-a, Thánh thánh thánh. - Những bài kèm theo nghi thức Phụng vụ như : ca Nhập lễ, ca Dâng lễ, ca Hiệp lễ, Lạy Chiên Thiên Chúa.+ Ca tôn giáo : là những bài nhạc đạo mà - Lời không phải là bản văn Phụng vụ, nhưng đã được Giáo quyền cho phép hát trong khi cử hành Phụng vụ (Thánh ca). Thí dụ : “Con sẽ bước lên bàn thờ”.
- Được sử dụng ngoài Phụng vụ, trong những buổi tĩnh tâm, cầu nguyện, giáo lý, sinh hoạt tôn giáo ngoài Phụng vụ, hoặc trình diễn ... (Giáo ca). Thí dụ : - “Requiem” của Mozart
- “Missa solemnis” của Beethoven
- “Ave Maria” của Schubert và của Gounod
- Những ca khúc của Duval, Sourire, Cocagnac, ...
- “Jesus Christ Superstar”, “Rock and Roll Opera”, ...
II. MỤC ĐÍCH CỦA THÁNH NHẠC :
Hiến chế về Phụng vụ số 112 đã nêu ra thật rõ ràng : “Mục đích của Thánh nhạc là làm vinh danh Chúa và thánh hóa các tín hữu”. Để cho Thánh nhạc đạt tới mục đích là làm vinh danh Chúa, thì Thánh nhạc : 1- Phải tuân theo “những qui tắc, luật lệ của truyền thống, và qui luật trong Giáo Hội” (PV. 112) “Truyền thống âm nhạc của toàn thể Giáo Hội đã kiến tạo nên một kho tàng vô giá, vượt hẳn mọi nghệ thuật khác, nhất là vì điệu nhạc thánh đi liền với lời ca, làm nên thành phần cần thiết hoặc kiện toàn của Phụng vụ trọng thể” (PV.112) “Khi bắt tay vào công việc mới này, các nhạc sĩ phải lo lắng tiếp tục một truyền thống đã cung cấp cho Giáo Hội kho tàng đích thực trong việc thờ phượng Thiên Chúa. Họ phải khảo cứu các thể loại, các đặc điểm của các tác phẩm dĩ vãng. Họ còn phải cân nhắc kỹ lưỡng các luật lệ và các đòi hỏi của Phụng vụ, để các hình thức mới sẽ do các hình thức cũ nảy sinh một cách có cơ cấu, và những tác phẩm mới sẽ có một địa vị mới trong kho tàng âm nhạc của Giáo Hội, địa vị này không được bất xứng với quá khứ” (HT “Musicam sacram’số 59). “Những ai hiến thân cho công việc này (những vị thừa sai) phải có một kiến thức đầy đủ cả về Phụng vụ, cả về nhạc cổ truyền của Giáo Hội, và cả về ngôn ngữ, dân ca và cách diễn tả đặc biệt của dân tộc mình đang phục vụ” (id. số 61). 2- Phải tuân theo sự hướng dẫn của Giáo Hội trong những chỉ thị liên quan đến Thánh nhạc của các văn kiện Giáo Hội qua các thời đại. Sau đây là những văn kiện của Giáo Hội liên quan đến Thánh nhạc trong những năm gần đây : - Tự sắc “Tra le Sollecitudini” của Đức Pio X, ban hành ngày 22.11.1903.
- Thông điệp “Musicae sacrae disciplina” của Đức Pio XII, 25.12.1955.
- Huấn thị “De musica sacra” của Thánh bộ Phụng tự, 03.09.1958.
- Hiến chế về Phụng vụ, chương VI của Công đồng Vaticano II, 14.04.1963.
- Huấn thị “De musica in sacra liturgia” của Thánh bộ Phụng tự, 05.03.1967
- Qui chế tổng quát sách lễ Roma do Thánh bộ Phụng tự công bố ngày 06.04.1969.
- “Concerts dans les églises”, 05.11.1987. Vậy ta có thể kết luận : chỉ khi nào Thánh nhạc tuân theo truyền thống và sự hướng dẫn của Giáo Hội, lúc đó Thánh nhạc mới đạt được mục đích đầu tiên là “làm vinh danh Thiên Chúa”. B) Thánh hóa các tín hữu : Thánh nhạc có mục đích nâng tâm hồn tín hữu lên với Chúa và nhờ đó, họ được thánh hóa. Do đó Thánh nhạc phải có tính “linh thánh” mới thánh hóa các tín hữu được. Thánh nhạc có những quy luật khách quan phải được tuân theo, vì Thánh nhạc là nghệ thuật chân chính và là nghệ thuật thánh, hơn là Thánh nhạc phải chiều theo những xu hướng cảm tình nhất thời và mau qua của con người. Đàng khác, Thánh nhạc không phải là loại “nhạc theo thời trang”, nhằm đáp ứng thị hiếu hay thay đổi của con người, chỉ được đánh giá trong một thời điểm, một hoàn cảnh nhất định. Trái lại, Thánh nhạc phải là nghệ thuật đích thực, mà nghệ thuật đích thực thì có giá trị trường tồn qua thời gian. Chính giá trị nghệ thuật chân chính của Thánh nhạc cũng có khả năng nâng con người lên tới Đấng là Chân, Thiện, Mỹ.
Nói cho cùng, một khi Thánh nhạc đã đạt được mục đích là làm vinh danh Chúa thì đương nhiên cũng có khả năng thánh hóa các tín hữu.
III. NHữNG ĐẶC TÍNH CỦA THÁNH NHẠC:
A) Tính thánh thiện (Sanctitas) Tính thánh thiện của Thánh nhạc được bảo đảm do các yếu tố :
Muốn có được tính thánh thiện thì lời Thánh ca :
+ Phải phù hợp với giáo lý Công giáo.
+ “Tốt hơn cả là rút ra từ Thánh Kinh và các nguồn mạch Phụng vụ” (x. PV. 121)
Sở dĩ lời Thánh ca “tốt hơn cả là rút ra từ Thánh Kinh” vì 2 lý do sau :
a. “Trong việc cử hành Phụng vụ, Thánh Kinh giữ vai trò tối quan trọng. Thật vậy, người ta trích từ Thánh Kinh những bài để đọc cũng như những ca vịnh để hát. Chính nguồn cảm hứng về sức phấn khởi của Thánh Kinh cũng làm xuất phát những lời kinh nguyện và những bài Ca Phụng vụ. Cần phải phát huy lòng mộ mến Thánh Kinh đậm đà và sống động” (PV. số 21). Thánh ca kèm theo Phụng vụ cũng phải đi song hành với Phụng vụ, nghĩa là nên dùng chính lời Thánh Kinh hoặc các bản văn Phụng vụ để dệt nhạc.
b. Lời Chúa trong Thánh Kinh tự bản chất có tính thánh thiện và do đó có sức thánh hóa các tâm hồn. Vì thế thánh Phaolô khuyên các tín hữu :“Anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” (CL. 3,16 ; x. Ep. 5,19).
Đã gọi là âm nhạc thì phải gồm đủ 3 yếu tố : dòng ca, nhịp điệu và hòa âm.
a. Dòng ca : là những dấu nhạc cao thấp đi theo nhau tạo nên, tiếng chuyên môn gọi là chuyển hành. Và chuyển hành thì có loại chuyển hành liền bậc (quãng 2) và chuyển hành cách bậc (từ quãng 3 trở lên). Trong Tự sắc số 3 ĐTC Pio X có viết : “Một bài ca viết cho thánh đường, càng giống Bình ca trong cách chuyển hành, thì càng thánh thiện”. Mà cách chuyển hành của Bình ca thông thường là chuyển hành liền bậc. Vậy :
+ Khi dòng ca càng chuyển hành liền bậc, càng giống Bình ca thì càng có tôn giáo tính. Xét về mặt sáng tác, những dòng ca chuyển hành liền bậc chứa đựng một nội dung hòa âm phong phú. + Những dòng ca dùng quá nhiều nửa cung nhân tạo biểu lộ một tâm trạng ủy mị, não nuột, ươn ái, và như vậy không được chấp nhận. Bình ca chỉ sử dụng ba loại nửa cung : Mi-Fa, Si-Đô, La-Sib. + Những dòng ca dùng quá nhiều chuyển hành cách bậc, nhất là sử dụng những quãng nhạc lớn, đó là biểu tượng một tâm hồn phóng túng, lãng mạn, như trong ca nhạc kịch. Những loại dòng ca này cũng không được chấp nhận. Trong những lối chuyển hành cách bậc, thì Bình ca : - hay sử dụng quãng 4 đúng và quãng 5 đúng : là những quãng không trưởng, không thứ, không buồn, không vui. Thí dụ : Salve Regina (P.R p.276)
- không chuyển hành quãng 4 tăng (quá cứng cỏi, khó hát, nên được mệnh danh là “Diabolus in musica”, thằng quỷ trong âm nhạc), quãng 5 giảm (quá yếu ớt), quãng 6 (có tính lãng mạn, kịch trường). Chính vì thế, theo chủ trương và truyền thống của Giáo Hội qua các thời đại, cung điệu thánh phải loại trừ các yếu tố như sau : + Theo “Decretum Gratianum” năm 1140, những cung điệu tuồng kịch phải loại ra khỏi Phụng vụ. + Hiến chế “Docta sanctorum patrum” của ĐTC Gioan XXII năm 1324 qui định : những cung điệu lả lướt phát xuất từ những tâm hồn lãng mạn không được chấp nhận trong Phụng vụ. + Trong phiên họp khoáng đại năm 1562-1563 Công đồng Tridentinô đã nghiêm cấm sử dụng trong Phụng vụ những điệu nhạc ủy mị, những điệu nhạc đi săn, những điệu nhạc xuất trận. Do đó những bài ca sử dụng quá nhiều cách trải dấu, là kiểu đặc biệt của kèn đồng đi săn, và kèn tiến quân, sẽ không được chấp nhận. Bình ca đôi khi cũng có trải dấu, nhưng rất tiết kiệm. Thí dụ các bài : Adorote, Attende, ... + Theo Thông điệp “Annus qui” của ĐTC Benedictus XIV ban hành năm 1750 thì những điệu nhạc mang tính chất trần tục, phóng túng, và kịch trường không được dùng trong Phụng vụ. + Giáo luật khoản 1264 loại trừ tất cả những thứ âm nhạc lả lướt, không trong sạch khỏi Phụng vụ. Tân Giáo luật khoản 2 cũng xác nhận lại điều đó khi viết : “Những luật Phụng vụ hiện hành, cho đến nay vẫn tiếp tục giữ hiệu lực, trừ một hai khoản nghịch với các khoản của Tân Giáo luật”. b. Nhịp điệu : là do những dấu nhạc dài vắn tạo nên. Nhịp điệu phong phú hơn dòng ca, nên nhịp điệu rất quan trọng trong việc tạo nên một dòng ca thánh thiện hay trần tục, “đạo” hay “đời”. Ngay từ đầu khi con người xuất hiện đã có nhịp điệu với những bộ gõ ... rồi vũ điệu. Các vũ điệu dần dần được thuần thục hóa, phong phú hóa như các điệu : Sarabande, Polka, Polonaise, Gavotte, Allemande, ... Xã hội hiện tại với những vũ điệu quay cuồng phải chăng phản ảnh tâm trạng sa đọa, bất an, xao xuyến của con người thời đại ? - Các điệu nhạc Jazz, rồi Rock and Roll, Pop rồi Disco ... ta tạm gọi tất cả các loại nhạc đó là kích động nhạc, là những loại nhạc khai thác những nhịp điệu giật gân, cuồng loạn, đồng thời sử dụng cả đủ loại tiếng động, ánh sáng và nhiều yếu tố không phải của âm nhạc đích thực. (X. Tô Hải, “Những ảnh hưởng của nhạc Rock Pop trong xã hội phương Tây”, Tạp chí Âm nhạc số 1/1987). Vậy, nhịp điệu là thánh thiện, có tôn giáo tính ? - Thực ra nhịp điệu nào cũng tốt cả. Vấn đề tốt hay xấu là do cách sử dụng cũng như do hoàn cảnh được sử dụng.
Giáo Hội nói gì về nhịp điệu ?
+ Trong thư đề ngày 25-1-1967, Đức Hồng Y Lercaro, Chủ tịch Hội đồng thực thi Hiến chế Phụng vụ, đã viết : “Những điều gì là thế tục phải loại ra khỏi Phụng vụ, như điệu Jazz ...”. + Trong thư gởi Đại hội Thánh nhạc Ý (đăng trên Osservatore Romano số 39), Đức Hồng Y Jean Villot, Quốc Vụ Khanh Tòa thánh, có viết : “Cố gắng tránh và cấm tất cả những loại âm thanh, nhạc khí có tính cách thế tục, đặc biệt những bài hát kích động, gay cấn, rùm beng, làm náo động khung cảnh thanh lịch của nghi thức Phụng vụ. Những thứ nhạc đó không thể nào xứng hợp với mục đích cao cả của Phụng vụ là thánh hóa con người”. Bất cứ một dòng ca nào, dù là tiếng mẹ ru con trong đêm vắng, cũng đã có sẵn hòa âm, vì hòa âm vốn tiềm ẩn trong những dấu nhạc cao thấp đi theo sau đó. Đặc biệt đối với những bài đa âm đồng điệu hay đa điệu viết theo những kỹ thuật hòa âm hay đối âm, thì đâu là tiêu chuẩn để đánh giá tôn giáo tính của chúng ? - Nói chung, hòa âm vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật, được đúc kết từ những kỹ thuật, nghệ thuật, kinh nghiệm hòa âm sáng tác của biết bao nhạc sĩ thiên tài từ cổ chí kim. Những kinh nghiệm và những kỹ thuật hòa âm đó đã được toàn thế giới công nhận và đưa vào học tập, giảng dạy trong tất cả các nhạc viện. Do đó, những tác phẩm viết sai kỹ thuật hòa âm và đối âm, phản lại nghệ thuật âm nhạc phổ quát, không được con người chấp nhận, thì làm sao xứng đáng để dâng lên Thiên Chúa được. Ngoài ra, không phải chỉ cần viết đúng luật hòa âm và đối âm là đã bảo đảm có tính thánh thiện ! Những phong cách hòa âm cầu kỳ, chỉ cốt gây những ấn tượng mạnh và bất ngờ có thực sự hợp với bầu không khí thanh thản của việc cầu nguyện hay không ? Những lối đệm đàn theo các điệu Fox trot, Twist, Soul, Surf, Agogo,... với dàn nhạc kích động mà bộ trống là chủ yếu, có thích hợp với tính thánh thiện của Phụng vụ hay không ? 3- Liên kết với Phụng vụ : Hiến chế Phụng vụ số 112 viết : “Thánh nhạc càng liên kết chặt chẽ với động tác Phụng vụ bao nhiêu thì càng Thánh bấy nhiêu”. Vậy trong khi cử hành Phụng vụ như Thánh lễ, Thánh nhạc phải: + Có những bài ca đúng chỗ. Chẳng hạn phải hát đúng bài Thánh vịnh Đáp ca hoặc một bài Thánh vịnh tương đương, chứ không được hát bất cứ bài nào lúc đáp ca. Lúc rước lễ, không được hát những bài về Đức Mẹ hay các Thánh, ... + Hát những bài ca đúng lúc, không kéo dài vô lối làm cho chủ tế và cộng đoàn phải đợi ... + Chọn những bài theo đúng ý nghĩa của ngày lễ, hợp với Mùa Phụng vụ hoặc nghi thức cử hành. “Trong cử điệu cũng phải kể cả việc tiến tới bàn thờ, việc dâng lễ vật và việc giáo dân tiến lên rước lễ. Phải cố gắng sao cho những việc ấy được thực hiện một cách trang nhã kèm theo những bài hát sướng hợp, chiếu theo qui thức đã ấn định cho mỗi việc đó”. (Qui chế tổng quát SLR số 22). Huấn thị “De musica in sacra liturgia” số 11 viết :“Nên nhớ rằng tính cách long trọng đích thực của một buổi cử hành Phụng vụ ít tùy thuộc vào hình thức ca hát cầu kỳ hoặc phô diễn các lễ nghi sao cho đẹp mắt, hơn là dựa vào phong cách cử hành sao cho xứng đáng, trang nghiêm và đạo đức. Phong cách này nhằm toàn bộ chính việc cử hành Phụng vụ, nghĩa là thi hành mọi phần lễ nghi theo bản tính riêng của những phần ấy. Nơi nào có thể làm hay được, thì rất ước mong các nơi ấy trình bày một hình thức phong phú hơn về ca hát và đẹp mắt hơn về nghi lễ. Nhưng nếu bỏ qua, hoặc thay đổi hay cử hành không đúng cách một trong những yếu tố của lễ nghi Phụng vụ thì chẳng phải là long trọng đích thực nữa”. Một bài thánh ca hay một bản thánh nhạc dù đã có tính thánh thiện (khách quan), nhưng nếu không được thể hiện, được hát lên bằng tâm tình đạo đức thánh thiện (chủ quan), thì bài ca hay bản nhạc đó vẫn chưa đạt được mục đích là “thánh hóa các tín hữu”. Chúng ta thường nghe câu ngạn ngữ La tinh : “Hát tốt là cầu nguyện gấp đôi” (Bis orat qui bene cantat). Hát tốt đây không chỉ là hát đúng, hát hay, mà trước hết phải hiểu là hát có tâm tình đạo đức, là cầu nguyện bằng lời ca tiếng hát. Việc thể hiện một bài thánh ca, ngoài cộng đoàn, còn bao gồm hai thành phần chính : ban hát và nhạc. Ban hát giữ một vai trò khá quan trọng trong Phụng vụ, nhất là khi Cộng đoàn chưa có khả năng tham gia toàn bộ ca hát trong các lễ nghi. Huấn thị “De musica in sacra liturgia” nêu rõ :“Khi toàn thể cộng đoàn chưa kịp chuẩn bị đầy đủ thì có thể giao một số bài cho Ban hát, miễn là không được gạt dân chúng ra ngoài những phần vụ khác liên hệ đến họ”. Các văn kiện Tòa Thánh về vấn đề Thánh nhạc đều đề cập đến việc thành lập, huấn luyện và ngay cả vị trí của Ban hát trong Thánh đường. + Hiến chế về Phụng vụ số 114 viết : “Phải nổ lực đào tạo các Ban hát, nhất là trong các nhà thờChính tòa”. + Hiến chế về Phụng vụ số 115 viết : “Các nhạc sĩ, ca sĩ, nhất là các thiếu nhi phải được huấn luyện cho có căn bản Phụng vụ”. + Huấn thị “De musica in sacra liturgia” số 19 viết :“Phải có một ‘Ca đoàn’ hoặc ‘Những ban hát nhà nguyện’, hoặc ‘Các nhóm ca viên’ và phải nghiêm túc phát triển những ban đó, nhất là ở các nhà thờ chính tòa và các đại thánh đường khác cũng như trong các chủng viện và học viện” (19a); “Trong các thánh đường nhỏ cũng nên thành lập những ca đoàn như vậy, dù dưới hình thức khiêm tốn” (19b). + Cũng Huấn thị trên ở số 24 viết :“Ngoài việc huấn luỵện về âm nhạc, cũng phải lo cho các ca viên được huấn luyện tương xứng về Phụng vụ và đạo đức, ngõ hầu khi chu toàn chức năng Phụng vụ của mình, chẳng những họ sẽ làm cho các buổi cử hành nghi lễ thêm đẹp, và đem lại cho tín hữu một tấm gương tốt, mà chính họ cũng được lợi ích thực sự về đường thiêng liêng nữa”.
+ Qui chế tổng quát số 274 nói về vị trí của Ban hát trong thánh đường :“Tùy địa thế mỗi nhà thờ mà sắp xếp chỗ cho Ban hát để bản chất của Ban hát được xuất lộ rõ ràng, nghĩa là họ vừa là thành phần của Cộng đoàn giáo dân sum họp, vừa có một nhiệm vụ riêng, để Ban hát thi hành công tác Phụng vụ dễ dàng hơn và giúp cho mỗi người trong Ban hát có thể tham dự đầy đủ vào Thánh lễ, nghĩa là tham dự vào Bí tích Thánh Thể một cách thuận lợi” (xem thêm Huấn thị “De musica in sacra liturgia” số 23).
Những người phụ trách việc ca hát trong Thánh đường nên chọn những bài ca mang tính chất cộng đồng hay ít nhất những bài ca mà cộng đoàn có thể hát phần điệp khúc một cách dễ dàng, vì :
“Thật không có gì tưng bừng và vui vẻ hơn trong một buổi cử hành Phụng vụ mà toàn thể cộng đoàn biểu lộ đức tin và lòng đạo đức của mình ra bằng lời ca tiếng hát” (Huấn thị “De musica in sacra liturgia” số 16).
“Hãy nhiệt tâm lo lắng để trong bất cứ lễ nghi nào có hát, tất cả Cộng đoàn tín hữu đều có thể tham dự một cách linh động vào những phần dành riêng cho họ” (Hiến chế về Phụng vụ số 114).
Ban nhạc, hoặc đơn giản hơn “các nhạc khí có thể rất hữu ích trong các buổi cử hành lễ nghi Phụng vụ, hoặc đệm theo tiếng hát, hoặc chơi riêng một mình” (Huấn thị “De musica in sacra liturgia” số 61)
Trong các loại nhạc khí, Giáo Hội đặc biệt đề cao đại phong cầm có ống, vì đó là loại nhạc khí “mà âm thanh có thể tăng thêm vẻ huy hoàng kỳ diệu cho những lễ nghi của Hội Thánh, và có sức mãnh liệt nâng các tâm hồn lên cùng Thiên Chúa và lên trời” (id. số 61)
Nói chung nhạc khí nào cũng tốt và có thể chấp nhận, nhưng cách sử dụng phải thích hợp với Phụng vụ: “Mọi nhạc khí được thừa nhận trong việc thờ phượng phải sử dụng thế nào cho hợp với các đòi hỏi của lễ nghi Phụng vụ, và làm cho việc thờ phượng nên tốt đẹp cũng như giúp các tín hữu thêm lòng đạo đức” (id. số 62).
Chính vì thế Sắc lệnh “Piae sollicitudines” của ĐGH Alexandro VII đã viết : “Phải đào thải những gì bất xứng và xa lạ ra khỏi Ban nhạc, đào thải những gì xúc phạm đến uy quyền Thiên Chúa, sinh gương xấu cho giáo dân, hoặc ngăn cản họ đưa lòng lên cùng Chúa”. Và trong Huấn thị “De musica sacra” số 68b cũng nêu rõ :“Âm thanh của nhạc khí cần phải làm sao gợi lên được vẻ trang trọng, tinh khiết, đạo hạnh, tránh mọi phát hiện nhạc đời và phải hun đúc được lòng sốt sắng của giáo dân”. Như vậy, những lối đệm đàn hay độc tấu nhạc khí theo phong cách của phòng trà, hộp đêm, ..., hay theo những điệu nhạc kích động giật gân, ... không thể nào phù hợp với bầu khí linh thánh của Phụng vụ.
Ngoài ra Giáo Hội còn qui định “Không được phép độc tấu các nhạc khí trong Mùa Vọng và Mùa Chay, trong tuần Tam Nhật Vượt Qua, và trong giờ Kinh Lễ Cầu Hồn” (Huấn thị “De musica in sacra liturgia” số 65, xem thêm “Concerts dans les églises” số 7).
(còn nữa)
|
|