|
|
Bài 4
Thánh Kinh và Thánh Nhạc
Người viết: Trần Phúc Nhân
Thánh nhạc có liên hệ chặt chẽ với Thánh Kinh (TK). Chúng ta sẽ tìm hiểu mối liên hệ đó qua hai phần: ca nhạc trong TK, và TK trong Thánh nhạc.
I. CA NHẠC TRONG THÁNH KINH :
A) Trong Cựu Ước:
Theo Cựu Ước, âm nhạc bắt nguồn từ Giu-van, một người thuộc dòng dõi Ca-in là con trai của ông tổ loài người :“Giu-van là ông tổ của những người chơi đàn” (St 4,21).
Ca nhạc là một hình thức văn hóa diễn tả tâm tình của con người qua âm điệu, vì thế được dùng trong nhiều hoàn cảnh, nhất là những dịp vui. Người ta tiễn đưa người thân “trong niềm vui, tiếng hát, tiếng trống, tiếng đàn” (St 31,27), mừng chiến thắng bằng tiếng ca (Xh 15,1; Tl 5,1), có kèm theo nhảy múa và đánh trống (Xh 15,20), với tiếng đàn tiếng kèn (2 Sb 20,28). Âm nhạc được sử dụng trong các bữa tiệc (Is 5,12; Am 6,5), trong đám rước dâu (1 Mcb 9,37.39). Nhà vua có các nam nữ ca sĩ (2 Sm 19,35; Gv 2,8), thì chú bé chăn chiên cũng biết gảy đàn (1 Sm 16,23).
Khi buồn, người ta không ca hát múa nhảy nữa (Ac 5,14-15), treo đàn lên cành dương liễu (Tv 137,2). Tuy nhiên âm nhạc cũng được dùng trong những dịp tang tóc : TK còn ghi lại bài văn tế của ông Đa-vít khóc vua Sao-lê và hoàng tử Gio-na-than (2 Sm 1,18-27) và các bài Ai ca than van về thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ bị phá hủy; trong đám tang có những người khóc mướn (Gv 12,5) và những người thổi sáo (Mt 9,23).
Như trong các tôn giáo khác, ca nhạc cũng có một chỗ đứng trong việc phụng tự Do thái giáo. Bài ca cổ nhất trong văn chương tiếng Híp-ri là bài ca tụng Chúa của bà Mi-ri-am, chị ông Mô-sê :
“Hãy hát mừng Đức Chúa,
Đấng cao cả uy hùng,
Kỵ binh cùng chiến mã,
Người xô xuống đại dương” (Xh 15,21).
Âm nhạc được dùng để gợi hứng cho các ngôn sứ (1 Sm 10,5; 2 V 3,15).
Trong đền thờ Giê-ru-sa-lem , âm nhạc phụng vụ được dành cho các thầy Lê-vi. Theo 1 Sb 15,16-24, việc tổ chức các thầy Lê-vi chuyên lo về Thánh nhạc đã có từ thời vua Đa-vít. Theo 1 Sb 25, vua Đa-vít đã chọn các con của các ông A-xáp, Hê-man và Giơ-đu-tun làm ca sĩ, nhạc công trong việc thờ phượng, và chia họ làm 24 ban. Có thể là một tổ chức qui mô như thế phản ảnh thực trạng của một thời muộn hơn là của thời Đa-vít, nhưng có sự gán ghép đó cho vua Đa-vít là vì vua có tài ca nhạc : khi còn trẻ Đa-vít đã được triệu vào triều để gảy đàn, làm dịu cơn điên của vua Sao-lô (1 Sm 16,16-23) ; khi làm vua, Đa-vít thích lễ nhạc và đích thân nhảy múa theo tiếng nhạc trước hòm bia Thiên Chúa (2 Sm 6,5.14-16). Cũng chính vì thế mà vua được coi là tác giả bộ Thánh vịnh.
Thánh vịnh là những bài thơ dùng trong phụng vụ với nhạc khí kèm theo. Ở đầu nhiều Tv có những tiêu đề trong đó hình như có chỉ dẫn về cách hát, cách đệm nhạc, ví dụ Tv 54,1 : “Phần nhạc trưởng. Với đàn dây. Thi khúc. Của Đa-vít” ; Tv 69,1 : “Phần nhạc trưởng. Theo điệu Bông huệ. Của Đa-vít”. Có lẽ các bài đó đã được hát, hay đúng hơn được ngâm theo những cung điệu nào đó, với tiếng đàn đệm ; nhưng ngày nay người ta không biết đích xác những cung điệu ấy xưa như thế nào.
Trong TK có nói tới ba loại nhạc khí :
a. Nhạc khí thổi, gồm có kèn bạc (kèn thẳng, chiều dài khoảng 1 m, dùng để triệu tập dân chúng và trong phụng vụ), tù và (bằng sừng dê), sáo.
b. Nhạc khí gảy, có đàn kinnor (có lẽ là đàn lia (lyre), nhỏ hơn, mang đi được ; tại Bê-ni Hát-san, ở phía Bắc Ai-cập, người ta đã tìm thấy trong một ngôi mộ cổ thuộc thế kỷ 19 trước công nguyên một bức họa vẽ một người châu Á vừa đi vừa gảy đàn), đàn neben (có lẽ là hạc cầm (harpe), lớn hơn). Trong TK đôi khi còn xác định : đàn tám dây, đàn mười dây.
c. Nhạc khí gõ, có chũm chọe, trống con, dùng để giữ nhịp khi hát và múa (Xh 15,20; 1 Sm 16,8 ; Is 5,12), và có lẽ là một loại sênh tiền nào đó (1 Sm 18,6).
Các nhạc khí được dùng cả trong đời sống dân sự, cả trong các nghi lễ thờ phượng. Tv 67(68),26 tả một đám rước : “Ca đoàn mở lối, ban nhạc theo sau, giữa là thanh nữ khua trống nhịp nhàng”. Tv 150 là một bản đại hòa tấu, có nói đến đủ ba loại nhạc khí : tù và, sáo, đàn, chũm chọe, trống.
B) Trong Tân Ước :
1. Trong Giáo Hội sơ khai
Phụng vụ Ki-tô giáo phần nào phát xuất từ phụng vụ Do thái nên lúc đầu cũng dùng các bài ca của đạo Do thái. Như ở Mt 26,30 nói : “Hát Tv xong, thày trò đi ra lên núi Ơ-liu” ; các Tv đó là Tv 115-118 người Do thái quen hát vào cuối bữa ăn Vượt qua. Theo sách Công vụ, thời Giáo Hội sơ khai, các môn đệ Chúa ki-tô vẫn lên đền thờ Giê-ru-sa-lem cầu nguyện (2,46 ; 3,1). Nhưng họ còn họp nhau tại tư gia để nghe các tông đồ giảng và cử hành lễ bẻ bánh 2,42.46-47). Chắc trong các buổi họp này, ngoài các Tv, dần dần các tín hữu có dùng thêm các thánh ca của mình, như thánh Phao-lô viết : “Hãy cùng nhau xướng đáp những bài thánh vịnh , thánh thi và những bài ca do Thần khí linh hứng” (Ep 5,18 ; x. 1 Cr 14,26). Khi vui, người tín hữu hát thánh ca (Gc 5,13), nhưng cả khi bị giam trong ngục, ông Phao-lô và ông Xi-la cũng hát thánh ca và các người tù khác nghe (Cv 16,25).
Trong Tân Ước có ghi lại một số thánh ca. Các thánh ca này thuộc hai loại. Một loại có hình thức và lối văn giống các Tv, đó là các bài ca của Đức Ma-ri-a (Lc 1,46-55), của ông Da-ca-ri-a (1,68-79), của ông
Si-mê-on (2,29-32). Còn loại thứ hai có hình thức uyển chuyển hơn , như các vinh tụng ca ở Lc 2,14 (thiên thần hát) ; 1 Tm 1,17 ; 3,16 ; 6,15-16 ; Kh 4,8.11 ; 5,9.12-13 v.v..., hoặc các bài chúc tụng về mầu nhiệm Chúa Ki-tô ở Ep 1,3-14 ; 5,14 ; Pl 2,6-11 ; Cl 1,12-20 v.v... Các bài ca này, trước khi được ghi lại trong Tân ước, có lẽ đã được dùng trong phụng vụ thời các thánh tông đồ, cũng như nay vẫn còn chỗ đứng trong phụng vụ Giáo Hội.
2. Trong phụng vụ Thiên quốc
Sách khải huyền cho biết : chúng ta không những hát ở trần gian, mà trên trời còn sẽ muôn đời ca hát. Thật vậy hạnh phúc trên trời là một niềm vui cộng đồng (qua hình ảnh một bữa tiệc, một đám hội), mà niềm vui tập thể biểu lộ ra trong tiếng ca tiếng nhạc, nên sách khải huyền nói rằng các người được Thiên Chúa chọn cũng ca hát. Kh 5,8-9 : Trước ngai Thiên Chúa và Con Chiên, 24 vị kỳ mục (là 12 ngôn sứ với 12 tông đồ, hoặc 12 chi tộc Ít-ra-en cũ với 12 chi tộc Ít-ra-en mới ?) phủ phục, tay gảy đàn và miệng hát bài ca mới. Kh 14,1-3 : Tác giả nghe thấy ở trên trời có tiếng lớn như tiếng nước lũ, tiếng sấm, như tiếng những nhạc sĩ vừa gảy đàn vừa hát. Đó là tiếng những người được cứu chuộc hát bài ca mới tạ ơn Thiên Chúa. Kh 15,2-3 : Các người thắng Con Thú (tức là quyền lực đối nghịch Thiên Chúa) cầm đàn của Thiên Chúa và hát bài ca của ông Mô-sê.
Phụng vụ của chúng ta phản ánh phụng vụ trên trời và tiên báo phụng vụ đó, nên cũng dành phần quan trọng cho âm nhạc. Khi hát, chúng ta hợp với ca đoàn các thiên thần và các thánh chúc tụng tạ ơn Chúa, nói lên niềm vui vì được cứu chuộc và được ở trong Cộng đoàn Giáo Hội, đồng thời ước mong và chuẩn bị một ngày nào sẽ được gia nhập ca đoàn thiên quốc ca tụng Chúa muôn đời.
II. THÁNH KINH TRONG THÁNH NHẠC
Theo Hiến chế Công đồng về phụng vụ, lời ca của các bài hát phụng vụ phải phù hợp với giáo lý Công giáo và tốt nhất là lấy từ Thánh Kinh (TK) và phụng vụ (số 121). Thật vậy, lời TK là lời linh hứng, nghĩa là được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn cho các tác giả viết, nên không có lời nào thánh thiện và cao quý bằng. Lời của các tác giả khác, dù hay đến mấy, cũng không thể sánh bàng. Đàng khác, lời Tv là thơ nên nhiều khi cũng rất hay. Vì thế, các bài hát phụng vụ chính thức năng dùng lời TK (lưu ý : ở đây chỉ nói đến các bài ca có trong các sách phụng vụ chính thức, chứ không nói đến các bài thánh ca do các nhạc sĩ sáng tác).
1- Một số bài ca phụng vụ không trực tiếp lấy lời TK
Có thể kể các thánh thi đầu mỗi giờ kinh, kinh Vinh danh, bài ca Tán tụng (Te Deum). Nhưng các bài ca này nhiều khi mượn ý và đôi khi cũng mượn lời TK. Ví dụ : kinh Vinh danh có câu đầu lấy ở Lc 2,14 và câu : “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” mượn từ Ga 1,29 ; bài ca Tán tụng có mượn lời tung hô của các Xê-ra-phim ở Is 6,3 và những câu cuối cùng của bài toàn là những câu Tv.
2- Đa số các bài ca phụng vụ lấy lời TK
Ở đây chỉ nêu ra những bài ca trong thánh lễ : ca nhập lễ, ca hiệp lễ, Tv đáp ca, lời tung hô Tin Mừng, Kinh Thánh Thánh Thánh, Kinh Lạy Chiên Thiên Chúa . Về những bài này, ta có những nhận xét sau đây :
Khi lấy lời TK, phụng vụ ít khi lấy cả một đoạn, mà chỉ lấy một ít câu ; có khi không lấy liên tục nhưng lượm lặt những câu hợp hơn ; hoặc có khi trong một câu lại cắt đi hay thêm vào một ít chữ, hoặc lấy ở chỗ khác ráp vào nữa. Phụng vụ làm như thế là nhằm lấy những yếu tố nào thích hợp hơn với mục tiêu của bài ca.
Có thể đan cử ví dụ bài Thánh Thánh Thánh. Phần đầu “Thánh ... trời đất đầy vinh quang Chúa” lấy lại bài của các Xê-ra-phim ở Is 6,3 nhưng thêm chữ “trời”. Phần sau : “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô Chúa trên các tầng trời” là lời dân chúng tung hô khi rước Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem ở Mt 21,. Nhưng câu “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” lại mượn từ Tv 118,26 ; câu hoan hô Chúa (Ho-san-na) trên các tầng trời” thì Ho-san-na lấy ở Tv 118,25a, còn “trên các tầng trời” đã được thêm vào.
Các Tv đáp ca cũng thế. Phụng vụ chỉ dùng toàn bộ một Tv nếu ngắn, còn thường trích ra một số câu hợp hơn với Bài đọc 1 đi trước. Về Tv đáp ca này có một số điều cần phải lưu ý.
3- Thánh vịnh đáp ca
Ở nhiều nhà thờ ta thấy thay vì đọc hay hát Tv đáp ca như Sách Bài đọc chỉ, thì người ta hát một bài nào khác. Làm như thế có đúng phụng vụ không ? Cha Roguet, chuyên viên phụng vụ giải thích : “Gọi là Tv đáp ca vì Tv thường do ca đoàn hay một người xướng, còn giáo dân chỉ hát câu đáp, tức là một điệp khúc ngắn lặp lại sau mỗi câu Tv. Nhưng chữ “đáp ca” còn có một ý nghĩa sâu hơn : trong phần phụng vụ Lời Chúa, Thiên Chúa nói với ta trước, và chúng ta hát một Tv để đáp lại. Tv đáp ca không phải là một bài hát để lấp chỗ trống. Tv này cần phải được lắng nghe thực sự trong thinh lặng. Đây là một cách suy niệm Bài đọc 1 trước đó và giúp ta lĩnh hội ý nghĩa Bài đọc đó trong sự cầu nguyện. Tv được phụng vụ chọn lựa tùy theo Bài đọc 1, cho nên có thể coi như một Bài đọc thứ 4” (Tìm hiểu Thánh lễ số 22 ; ba bài đọc kia là bài Cựu Ước, bài Thánh thư và bài Tin Mừng). Như vậy ta thấy rõ : Tv đáp ca có liên hệ chặt chẽ với Bài đọc 1 trước đó và phải là một bài Tv hoặc thánh ca lấy từ TK, chứ không phải là bài ca có tính cách trang trí, lấy lời của một người phàm nào, dù hay đến mấy.
Khi hát Tv đáp ca thì làm thế nào ? Lý tưởng là hát Tv chỉ định trong sách Bài đọc. Trong thực tế, điều này khó thực hiện, vì chỉ có rất ít Tv được dệt nhạc và cộng đoàn thường không dủ khả năng để hát mỗi lần. Khi nào Tv đã được dệt nhạc thì có thể hát (nhưng lưu ý : nhiều khi phụng vụ chỉ dùng một số câu chứ không lấy cả Tv). Một giải pháp khác là dệt một điệu nhạc dễ vào câu đáp (điệp khúc), còn các câu riêng thì do một người xướng lên bằng một cung giọng đơn giản. Sách lễ Rô-ma (Qui chế Tổng quát, số 36) còn đưa ra một giải pháp nữa, ít được biết đến : Khi nào hát thì tùy theo Mùa phụng vụ có thể dùng một số câu đáp chung và một số Tv chung, thay cho các Tv đáp ca được chỉ định trong sách Bài đọc (xem Phụ lục ở cuối bài này).
4- Một số từ Híp-ri dùng trong phụng vụ
Trong các sách phụng vụ tiếng La-tinh chỉ còn ba từ : A-men, Ha-lê-lui-a và Ho-san-na. Trong một ít bài hát tiếng Việt đôi khi ta còn gặp Gia-vê, Ma-ra-na-tha. Ta thử tìm hiểu ý nghĩa và cách dùng những từ này.
A-MEN có nghĩa là “thật như thế”, “tôi đồng ý”. Phụng vụ năng dùng A-men, nhưng lời thưa A-men đặc biệt long trọng ở cuối Lời nguyện nhập lễ và nhất là ở cuối Kinh Tạ ơn (Kinh nguyện Thánh Thể), trước Kinh Lạy Cha, nói lên sự đồng tình của cộng đoàn với lời cầu nguyện của linh mục. Nên nghiên cứu cách nào để làm nổi bật hai lời thưa A-men đó.
HA-LÊ-LUI-A là phiên âm từ Halơlu-Yah (trong tiếng Híp-ri có chữ h, thiết tưởng ta cũng nên giữ) : halơlu là “hãy ca tụng” ; Yah là một dạng tắt của tên Gia-vê. Ha-lê-lui-a là “Hãy ca tụng Chúa”, vì thế là một lời tung hô. Theo Khải huyền 19,1.3.4.6, Ha-lê-lui-a được dùng trong bài ca khải hoàn trên thiên quốc. Vì thế thánh tiến sĩ Âu-tinh nói : chúng ta hát Ha-lê-lui-a khi còn đi trên đường ở trần thế, để thêm can đảm, thêm sức tiến về quê trời, nơi chúng ta sẽ muôn đời hát Ha-lê-lui-a. Khi hát, nếu cần cắt chữ ra thì cắt theo nghĩa, tức là Ha-lê-lu Ha-lê-lui-a. chứ đừng cắt Ha-lê Ha-lê-lui-a (như thấy trong một vài bài hát).
HO-SAN-NA dùng trong bản La-tinh kinh Thánh Thánh Thánh (xem phần số 2 ở trên). Bản chính thức tiếng Việt dịch là “Hoan hô Chúa”, chỉ có bộ lễ Nguyễn Văn Trinh dùng Ho-san-na.
GIA-VÊ là danh Chúa trong Cựu ước. Trong một số bài hát tiếng Việt còn gặp từ này. Thực ra trong Cựu ước Híp-ri, tên Chúa được viết tắt bằng bốn phụ âm YHVH. Bốn phụ âm này đọc với nguyên âm nào thì không rõ, vì chính người Do-thái, do kính trọng, đã từ lâu không đọc tên Chúa, mà hễ gặp YHVH thì đọc là A-đo-nai, nghĩa là “Chúa chúng tôi”. Đọc là Giê-hô-va chắc chắn là không đúng. Nhiều học giả TK cho rằng đọc là Gia-vê (Yahveh), nhưng cũng không chắc, vì có ý kiến cho rằng có lẽ đọc là Gia-vô (Yahvoh). Dầu sao, đối với chúng ta vấn đề đó không quan trọng vì phụng vụ Giáo hội, tiếp nối truyền thống Do thái, không hề đọc tên Chúa, mà chỉ dùng Ky-ri-os (Hy lạp) hoặc Do-mi-nus (La tinh), nghĩa là “Chúa”. Vì thế chúng ta cũng nên tránh dùng Gia-vê trong các bài hát (trừ khi những bài cũ đã lỡ soạn rồi) và khi soạn bài hát thì nên dùng “Chúa” hay “Đức Chúa” (như Hoàng Kim). Như thế hợp với truyền thống phụng vụ hơn.
MA-RA-NA-THA là một từ tiếng A-ram gặp ở 1Cr 16,22. Tùy theo cách ngắt chữ, có thể có hai nghĩa : Ma-ran a-tha là “Chúa ngự đến”, Ma-ra-na tha là “Lạy Chúa chúng con, xin ngự đến” (Kh 22,20 có lời tương tự : “Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến”).
Như đã thấy trên, thánh nhạc có liên hệ chặt chẽ với TK. Vì thế muốn soạn và dùng thánh nhạc cho đúng và cho thấm thía ý nghĩa, cần phải học phải biết TK.
Nếu hiểu ý nghĩa TK và việc sử dụng TK trong phụng vụ, ta sẽ chọn bài hát đúng chỗ và đúng mùa phụng vụ. Ta cũng sẽ có thể soạn những bài ca thích hợp, tránh được trường hợp đáng tiếc như bài Hãy vùng đứng của Vinh Hạnh lấy lời Is 60 và có cảm hứng nhạc rất khá, nhưng lại không dệt nhạc những câu 3-6 (nói về các vua tiến bước theo ánh sáng của Giê-ru-sa-lem và các dân nước sẽ mang lễ vật, vàng với trầm hương đến) nên nếu dùng trong lễ Hiển linh (là hoàn cảnh thích hợp nhất) thì thấy thiếu. Bài Hát lên một bài ca mới của cùng một tác giả cũng thế : bài này là Tv 97 (98), thánh vịnh đặc trưng của Mùa Giáng sinh, nhưng lại thiếu câu 2-3 là hai câu quan trọng nhất (“Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ ... toàn cõi đất đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”), do đó bài ca hùng hồn này trở nên què quặt ... Ngược lại, soạn với lời ca lấy cảm hứng từ TK thì không những lời ca phong phú và đúng với đường lối Giáo hội, mà hơn nữa bài ca được bảo đảm có giá trị lâu dài, vì lời ca do nhạc sĩ sáng tác dễ chạy theo thời trang và do đó cũng rất chóng lỗi thời, còn lời ca lấy từ TK (và phụng vụ) thì không bao giờ già đi (về mặt này có lẽ phần nào cũng có thể lấy Vinh Hạnh làm ví dụ ...).
PHỤ LỤC :
CÁC CÂU ĐÁP CHUNG VÀ THÁNH VỊNH ĐÁP CA CHUNG
1. Các câu đáp chung có thể dùng (khi hát) với bất cứ Tv đáp ca nào trong Mùa PV
+ Mùa Vọng : Xin Chúa đến cứu chuộc chúng con.
+ Mùa Giáng sinh : Lạy Chúa, hôm nay chúng con đã nhìn thấy (hoặc : được chiêm ngưỡng) vinh quang Chúa.
+ Mùa Chay : Lạy Chúa, xin nhớ lại ân tình và tín nghĩa của Chúa. (hoặc tình thương và lòng thành tín của Ngài)
+ Mùa Phục sinh : Ha-lê-lui-a (2 hoặc 3 lần)
+ Mùa Thường niên :
- Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ
- Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Ngài, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu
- Hát lên mừng Chúa một bài ca mới
- Chúa gần gũi những ai kêu cầu chúa
- Lạy Chúa, xin nhận lời và cứu độ con
- Chúa là Đấng từ bi nhân hậu
2. Các Thánh vịnh đáp ca chung có thể hát thay cho Tv được chỉ định trong sách Bài đọc, tùy thuộc Mùa (số trước là số của bản PV, số trong ngoặc là số của bản Híp-ri)
. Tv 24 (25),4bc-5ab.8-9.10+14 (câu đáp : 1b) lấy ở Mùa Vọng, CN 1C.
. Tv 84 (85),9ab-10.11-12.13-14 (câu đáp 8) lấy ở Mùa Vọng, CN 2B.
. Tv 97 (98),1.2-3ab.3cd-4.5-6 (câu đáp : 3c) lấy ở lễ Giáng sinh, lễ ngày
. Tv 50 (51),3-4.5-6a.12-13.14+17 (câu đáp : x.3a) lấy ở Mùa Chay CN 1A
. Tv 90 (91),1-2.10-11.12-13.14-15 (câu đáp : x.15b) lấy ở Mùa Chay CN 1C
. Tv 129 (130),1-2.3-4ab.4c-6.7-8 (câu đáp : 7) lấy ở Mùa Chay CN 5A
. Tv 117 (118),1-2.16ab-17.22-23 (câu đáp : 24) lấy ở lễ Phục sinh, lễ ngày
. Tv 65 (66),1-3a.4-5.6-7a.16+20 (câu đáp : 1) lấy ở Mùa Phục sinh, CN 6A
. Tv 18B (19B),8.9.10.15 (câu đáp : Gioan 6,64b) lấy ở Mùa Thường niên, CN 3C
. Tv 26 (27),1.4.13-14 (câu đáp : 1a) lấy ở Mùa Thường niên, CN 3A
. Tv 33 (34),2-3.4-5.6-7.8-9 (câu đáp : 9a) lấy ở Mùa Thường niên, CN 19B
. Tv 63 (63),2.3-4.5-6.8-9 (câu đáp : 2b) lấy ở Mùa Thường niên, CN 12C
. Tv 94 (95),1-2.6-7.8-9 (câu đáp : 8) lấy ở Mùa Thường niên, CN 4B
. Tv 99 (100),2.3.5 (câu đáp : 3c) lấy ở Mùa Thường niên, CN 11A
. Tv 102 (103),1-2.3-4.8+10.12-13 (câu đáp : 8a) lấy ở Mùa Thường niên, CN 7A
. Tv 144 (145),1-2.8-9.10-11.13cd-14 (câu đáp : x.1) lấy ở Mùa Thường niên, CN 14A
Hy vọng các nhạc sĩ sẽ dệt nhạc (dễ dễ một chút) các câu đáp chung và các thánh vịnh đáp ca theo đúng tinh thần phụng vụ.
|
|