Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 40 trên 48

Chủ đề: DẪN VÀO THÁNH NHẠC - Lm. Đỗ Xuân Quế (biên khảo)

Threaded View

  1. #11
    dominico_dung's Avatar

    Tuổi: 61
    Tham gia ngày: Nov 2007
    Tên Thánh: Dominico
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đàng trong
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,837
    Cám ơn
    6,848
    Được cám ơn 17,693 lần trong 2,615 bài viết

    Default

    Bài 8
    Các hình thể bình ca


    Một trong hai đặc tính quan trọng nhất của Thánh nhạc, như đã trình bày ở bài II, đó là hình thức tốt đẹp (x. Huấn thị “De musica in sacra liturgia” số 4a; x. Tự sắc “Tra le sollecitudini”, số 2, của ĐTC Pio X). Hơn bất cứ một nền âm nhạc nào, Bình ca đã để lại rất nhiều hình thể có tính chất nghệ thật rất phong phú, đa dạng và hợp lý. Chính vì thế mà hầu hết các nhạc viện trên thế giới đều bắt các nhạc sinh khoa sáng tác phải học môn Bình ca ít nhất là 2 năm.

    Hơn ai hết, các nhạc sĩ sáng tác Thánh ca lại càng phải nghiên cứu, học hỏi thật tường tận các hình thể Bình ca. Cho dù cả khi sáng tác những cung điệu mới cho những bản văn bằng tiếng bản quốc, họ cũng phải cố gắng rút tỉa từ những hình thể Bình ca tất cả những gì có thể ứng dụng được vào việc sáng tác này, để “các hình thức mới sẽ phát sinh từ các hình thức đã có sẵn, do một sự phát triển có thể nói được là cơ yếu, và các tác phẩm mới sẽ tạo ra một phần mới cho ca mục âm nhạc của Hội Thánh, không bất xứng với quá khứ một chút nào”. (HT “De musica in sacra liturgia” số 58).
    Sau đây chúng ta tuần tự trình bày một cách sơ lược về một vài hình thể thông dụng của Bình ca.

    I. HÌNH THỂ CA VÃN (HYMNUS)

    Đây chính là hình thể mẫu mực cho các loại ca khúc đạo và đời. (x. thêm “Tôi việt ca khúc tiếng Việt” của Lm Tiến Dũng).
    A) NỘI DUNG
    “Hymnus” là loại ca khúc có tính cách ca tụng và tôn vinh. Ví dụ : Hymne national, Hymne d’action de grâce, Hymnologie,...
    B) HÌNH THỂ :
    Dùng một cung điệu (mélodie) duy nhất cho nhiều đoạn văn khác nhau (strophes). Vì chỉ có một cung điệu duy nhất cho nhiều đoạn văn khác nhau, nên cung điệu duy nhất đó sẽ được diễn tả thư thái, hồi hộp, to nhỏ,... khác nhau tùy theo nghĩa của từng đoạn văn.
    C) CƠ CẤU CỦA CUNG ĐIỆU CA VÃN:
    Chính cơ cấu của đoạn văn của lời ca quy định cơ cấu của đoạn nhạc. Mà đoạn văn ở đậy là đoạn thơ. Những bài thơ để làm nên bài ca vãn bao giờ cũng được chia thành những đoạn dài vắn bằng nhau. Có những bài thơ gồm những đoạn 2,3,5,6,... câu thơ; nhưng thông thường nhất là đoạn 4 câu thơ. Chính vì thế đoạn nhạc 4 câu thơ cũng thường hay gặp hơn cả.
    Để thực hiện được điều kiện cơ bản của nghệ thuật là sự “thay đổi trong đồng nhất” các nhạc sĩ đã tạo ra cho mỗi câu nhạc một ý nhạc, sao cho các ý nhạc ăn khớp với nhau một cách hài hoà chặt chẽ, theo một bố cục, hay nói đúng hơn là theo một MƠ HÌNH nào đó. Sau đây là một số loại mô hình đẹp và hoàn chỉnh của hình thể ca vãn trong Bình ca.
    1- Loại 1 : Có một ý nhạc nào đó được lặp lại y chang, không có một chút biến cải nào.
    a. MƠ HÌNH I a b c a : Đây là mô hình thông dụng nhất của hình thể ca vãn. Vì trong số hơn 100 bài ca vãn Latinh trong cuốn Thánh ca Latinh Gregoriô tựa đề “Liber Usualis” có đế 1/10 tổng số viết theo mô hình này. Thí dụ bài “Jam lucis” t.224 : Xem thêm bài “Te lucis” (trg 267), “Regis superni” (trg 1688), “O salutaris” (1854)...
    b. MƠ HÌNH II a a b c :
    Xem bài “Iste Confessor” (tr.1178), “Adoro te” (tr.1855),...
    c. MƠ HÌNH III a b c b :
    Xem bài “Lucis creator” (tr.257), bài “Te splendor” (tr.1661).
    2- Loại 2 : Khi nhạc sĩ lặp lại ý nhạc a, b, hoặc c, nhưng biến đổi phần đầu hoặc phần cuối ý nhạc. Ý nhạc được biến đổi đó được ghi là a’, b’, c’.
    a. MƠ HÌNH I a b c a’ : thí dụ bài “Te lucis” tr.167.
    Xem thêm các bài “Salutis humanae” (tr.852), “Salvete Christi” (tr.1529),...
    b. MƠ HÌNH II a b a b’ : x. “Lucis creator” (tr.256), “Immense caeli” (tr.517).
    c. MƠ HÌNH III a a’ b c : x. “Nunc Sancte” (tr.235).
    d. MƠ HÌNH IV a a’ b a’: x. “Sanctorum meritis” (tr.1157).
    e. MƠ HÌNH V a b a’ b’: x. “O lux beata” (tr.475).
    3- Loại 3 : khi ý a b c d có công thức kết giống nhau, ví dụ : LA-SOL-LA, RÊ-ĐƠ-RÊ. Khi có những ý nhạc có công thức kết giống nhau được ký hiệu a+, b+, c+, d+.
    a. MƠ HÌNH I a+ b+ c d+ : Thí dụ bài “Jam sol” tr.312 :
    Xem thêm các bài “Veni Creator” (tr.885), “Maria Mater” (tr.1863).
    b. MƠ HÌNH II a b+ c b+ : x. “Creator alme” (tr.324),
    “O gloriosa” (tr.1314)
    c. MƠ HÌNH III a+ b c d+ : x. “Ave maris stella” (tr.1262)
    d. MƠ HÌNH IV a b+ c+ d : x. “Te lucis” (tr.577),
    “Exsultet orbis” (tr.1115)
    e. MƠ HÌNH V a+ b+ c+ d : x. “Jesu dulcis memoria” (tr.452)
    f. MƠ HÌNH VI a+ b c+ d : x. “Cor, arca legem” (tr.967),
    “Verbum supernum” (960)
    g. MƠ HÌNH VII a+ b c+ d+ : x. “Te lucis ante” (tr.540)
    h. MƠ HÌNH VIII a+ b+ c+ d+ : x. “Ad regias” (tr.812)
    i. MƠ HÌNH IX a b+ c+ d+ : x. “Te Joseph” (tr.1445). 4- Loại 4 : có bài 4 câu nhạc, có bài 3,5,6 câu nhạc; mỗi câu nhạc chia từng vế, tuỳ theo câu thơ dài vắn. Những câu nhạc hoặc vế nhạc này nhiều khi có những ý nhạc khác nhau, nhưng nghệ sĩ bao giờ cũng tạo nên một điểm để các ý nhạc khác nhau đó vẫn có sự đồng nhất. Ví dụ :
    + “Sacris” (tr.920) : quãng đặc biệt là quãng 5
    + “Exsultet” (tr.1116) : 4 công thức kết đều ngân dài, quãng đặc biệt là quãng 5
    + “Omnis” (tr.1382) : vế 4, vế 5 ý nhạc chuyển tiếp, nhịp điệu đặc biệt.
    + “Ut queant” (tr.1504) : đầu mỗi vế nhạc lên từng bậc theo 7 dấu Đo, Re, Mi Fa...
    + “Caelestis” (tr.1248) : đoạn 6 câu, 2 câu mở đầu bằng Đô, Rê, Fa, 2 câu mở đầu bằng La-Đô và Mi-Sol.
    + “Stabat Mater” (tr.1424) : chỉ có 3 câu nhạc vì có 3 câu thơ, công thức kết giống nhau.
    + “Sedibus” (tr.1551) : công thức dòng ca là La-Fa-La, Đô-La-Đô, Mi-Rê-Sol.
    + “Vexilla” (tr.1706) : công thức dòng ca Rê-Đô-Fa, La-Sol-Đô, Mi-Rê-Sol.
    + “Solis” (tr.16002) : 7 vế, 5 vế có công thức kết giống nhau, 2 vế có công thức kết giống nhau.
    + “Custodes” (tr.1666) : 7 vế a b c d b’ c e.
    + “Pange lingua” (tr.709) : 6 ý nhạc, trong đó 2 ý nhạc được lặp lại a b c d c d.
    + “Nunc” (tr.169) : 4 ý nhạc đi xuống liền bậc. v.v...
    Hình thể ca vãn được ứng dụng rất rộng rãi trong :
    a. các bài Choral 4 câu nhạc, đôi khi 6 câu nhạc
    b. các ca khúc đạo và đời : cũng thường gồm 4 câu nhạc
    c. các bài Đối Ca đi với Thánh vịnh (sẽ trình bày ở các mục IV, VI)
    D) ĐỊA VỊ CỦA BÀI CA VÃN (hay BÀI TÁN TỤNG)
    1- Vì là bài tán tụng nên được hát đầu các giờ Kinh Phụng Vụ (Ban sáng: tán tụng Thiên Chúa đấng sáng tạo. Ban trưa : tán tụng Thiên Chúa quyền năng... Tán tụng các thánh...)
    2- Các nhạc sĩ nên lưu ý đến việc sáng tác các bài tán tụng để hát :
    a. trước giờ Phụng vụ Lời Chúa
    b. Trước các buổi canh thức, các buổi vọng lễ
    c. trước các buổi tập họp để cầu nguyện : viếng đài Đức Mẹ, viếng hang đá,...
    d. Trước các buổi thảo luận về đạo (Tĩnh tâm, Cấm phòng,...) các buổi hành hương.
    đ. trước các giờ kinh hoặc rước Thánh Thể (Tự sắc của ĐTC Pio X : các bài “Tantum Ergo” phải được viết theo hình thể Hymnus)
    e. trước các giờ giáo lý.
    3- Kinh Gloria, Te Deum đều được gọi là Bài ca Tán tụng căn cứ vào nội dung lời văn, chứ không phải do hình thể âm nhạc.
    4- Vì là Bài ca Tán tụng nên bài ca nào cũng kết bằng câu tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi (doxologie)

    II. HÌNH THỂ TỤNG KINH (PSALMODIE)

    Đây là hình thể cổ nhất của Bình ca. Hầu như tôn giáo nào cũng có hình thể này :
    + Người theo Hồi giáo quỳ gối sấp mình, đọc kinh Coran vào những giờ quy định.
    + Người phật tử tụng kinh trong nhà chùa theo nhịp gõ mõ, tiếng chuông.
    + Người Do thái giáo đọc Thánh vịnh cũng lên giọng, xuống giọng theo những cung có sẵn.
    + Giáo Hội Công giáo khai triển Bình ca Gregoriô theo truyền thống thừa hưởng lối hát Thánh vĩnh của người Do thái, áp dũng trong các lễ nghi Phụng vụ.
    + Hát Thánh vịnh theo hình thể tụng kinh rất hợp với tâm hồn người Việt Nam, vì tự bản chất ngôn ngữ Việt Nam đã có âm điệu trầm bổng, nên khi một bản văn VN đọc lên tự nó đã có một cung giọng nào đó. Td : các cung đọc kinh của 3 miền Nam-Trung-Bắc,...
    Như vậy không còn bàn cãi gì nữa, chúng ta phải để tâm nghiên cứu học hỏi hình thể tụng kinh cho thật kỹ lưỡng để đem ứng dụng vào việc sáng tác những bản Thánh ca VN. Như vậy vừa nối tiếp được truyền thống Phụng vụ của Giáo Hội, vừa phù hợp với bản sắc của dân tộc, theo như Huấn thị “De musica in sacra liturgia” đòi hỏi (số 53-60).
    A) CƠ CẤU CỦA HÌNH THỂ TỤNG KINH :
    Hình thể tụng kinh có 4 yếu tố căn bản :
    1- Dấu nhạc trụ : là yếu tố căn bản số một của hình thể tụng kinh. Hát Tv theo hình thể tụng kinh là hát mỗi một câu Tv bằng bằng theo dấu nhạc trụ. Thường thì cung Tv chỉ có một trụ, nhưng cung “hành hương” (peregrinus) lại có hai trụ, nghe khá hấp dẫn.
    2- Công thức xướng : Đầu câu Tv chúng ta bắt đầu hát ở một vài dấu nhạc thấp để rồi vươn lên tới dấu trụ. Những dấu nhạc lượn lên xuống để khởi sự cung Tv gọi là công thức xướng.
    3- Công thức kết : Cuối câu Tv chúng ta bắt đầu từ dấu trụ rồi hát hạ xuống mấy dấu nhạc để kết câu. Những dấu nhạc lượn lên xuống để kết cung Tv gọi là công thức kết.
    4- Công thức ngắt câu (hay Công thức trung gian) : Thường mỗi cân Tv được chia làm 2 vế, để có cơ hội ngắt lấy hơi. Cuối vế 1 của cung Tv có những dấu nhạc lượn lên xuống gọi là công thức ngắt câu.
    B) HÌNH THỂ TỤNG KINH TRONG CÁC SÁCH BÌNH CA :
    Bình ca có 8 cung hát Tv, viết theo 8 MODUS Bình ca (xem bài VII). Ngoài 8 cung Tv trên, Bình ca còn 2 cung Tv đặc biệt :
    1- Cung Phục Sinh, hát vào Giờ Kinh ngày lể Phục Sinh
    2- Cung hành hương (Peregrinus) : Cung này có 2 trụ, nữa câu Tv trước hát theo trụ dấu LA, nữa câu Tv sau hát theo trụ dấu SOL.
    C) ỨNG DỤNG VÀO SÁNG TÁC THÁNH CA VN
    Cơ cấu hình thể tụng kinh của Bình ca đã trở nên hoàn chỉnh. và đã được thử thách qua biết bao nhhiêu thể kỷ. Thiết tưởng khi sử dụng hình thể này vào việc sáng tác thánh ca VN, chúng ta nên giữ lại tối đa cơ cấu của nó, ít nhất là 3 công thức xướng, công thức trụ và công thức trung gian. Vì tiếng Việt có dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nên không thể đọc một câu Tv tiếng Việt bằng bằng theo một dấu nhạc duy nhất. Do đó khi đọc một câu Tv tiếng Việt theo hình thể tụng kinh, chúng ta cần ít nhất là 3 dấu nhạc cao thấp khác nhau cho công thức trụ, chẳng hạn :
    1- Dấu trầm (Sol) để đọc những chữ có dấu huyền, hỏi, nặng.
    2- Dấu trung (La) để đọc những chữ không có dấu.
    3- Dấu cao (Si) để đọc những chữ có dấu sắc, ngã.

    III. THÁNH VỊNH CÓ ĐÁP CA (Psalmus responsorius).

    A) CƠ CẤU HÌNH THỂ.
    Sau mỗi câu Tv kêu là V/ thì hát đáp ca kêu là R/ :
    1- Đáp ca này là một ý nhạc vắn gọn, dệt trên một câu văn vắn gọn, được rút ra từ Tv, và thường nói lên ý chính của Tv. Thí dụ bản văn Đáp ca ngày lễ GS:
    V/ Ngày từ lúc bẩm sinh, con đã được chức đế vương ngợp thánh thiện hiển ngời.
    R/ Ta dựng con từ vạn đại, Con ơi.
    2- Hoặc bản văn Đáp ca nói lên một ý tưởng có khả năng đáp lại với từng câu Tv, như một câu ca tụng Chúa. Thí dụ :
    3- Hoặc một danh xưng đối với Chúa như :
    V/ Veni ad liberandum nos
    R/ Domine Deus virtutum
    4- Hoặc một câu xin Chúa thương như :
    V/ Miserere mei Deus secundum misericordiam tuam.
    R/ Miserere mei Deus.
    Chúng ta nhận thấy :
    + Câu “Miserere mei Deus” là mấy chữ của V/ thứ nhất của Tv.
    + Câu “in aeternum cantabo”, câu “Domine Deus virtutum” đều là phần thứ 2 của câu Tv đầu tiên.
    B) ỨNG DỤNG SÁNG TÁC
    Thí dụ bài Đáp ca lể Phục Sinh trích trong “Thánh ca Phụng vụ Tuần Thánh” của Lm Tiến Dũng.
    C) ĐỊA VỊ CỦA THÁNH VỊNH CÓ ĐÁP CA
    Tv có Đáp ca, Tv có Alleluia, Đối ca Alleluia với câu Tv, và Tv hát một lèo, đều là những bài ca để hát xen kẽ vào các bài đọc trong thánh lễ trước khi tuyên bố Tin Mừng.

    IV. HÌNH THỂ ĐỐI CA VỚI THÁNH VỊNH (Antiphona cum psalmo suo)

    A) DANH XƯNG :
    Do tiếng La-tinh Antiphona (nguyên ngữ Hy lạp ...... là đối chọi, và ....... có nghĩa là âm thanh). Có người dịch là Tiền ca, vì họ lẫn lộn chữ “ante” (có nghĩa là trước) với chữ “anti” (là đối chọi).
    B) TÍNH CHẤT :
    Đối với Đáp ca thì ý nhạc và ý bản văn của Đáp ca đáp lại ý nhạc và ý bản văn của mỗi cân Tv làm cho ý nhạc của câu Tv như vế xướng, và ý nhạc của Đáp ca như vế đáp. Nghĩa là ý nhạc của câu Tv và ý nhạc của Đáp ca là hai thành phần bổ túc cho nhau, để làm nên một bộ phận duy nhất. Vì thế chúng ta phải hát một câu Tv trước rồi mới hát Đáp ca sau.
    Còn đối với Đối ca, thì ý nhạc và ý câu văn của Đối ca đối chọi với ý nhạc và ý câu văn của câu Tv, cho nên:
    1- cung điệu của Đối ca uyển chuyển, hoa hoè, trong lúc cung điệu của câu Tv thì đơn sơ theo kiểu đọc.
    2- bản văn của Đối ca là bản văn hoàn chỉnh, đầy đủ ý nghĩa, không cần cộng thêm ý nghĩa của câu Tv mới trọn nghĩa.
    3- vì thế chúng ta phải hát Đối ca trước, rồi hát câu Tv, sau đó lại hát Đối ca.
    4- cung điệu Đối ca thường được viết theo mô hình một ca vãn (hymnus), trong lúc các câu Tv được viết theo hình thể tụng kinh. Đối ca nhập lễ Mùa Vọng.
    C) ỨNG DỤNG SÁNG TÁC
    Thí dụ bài “Đối ca rước lá” trích trong tập “Thánh ca Phụng vụ Tuần thánh” :
    D) ĐỊA VỊ CỦA ĐỐI CA VỚI THÁNH VỊNH
    1- Bài Đối ca mang tính chất bài ca diễu hành, tức là một hành khúc để giúp cộng đoàn nhịp nhàng nghiêm trang tiến bước, chứ không phải một bài ca ồn ào, náo loạn, có tính chất giật gân.
    2- Dành cho cộng đoàn : sáng tác thích hợp với cộng đoàn.
    3- Hát vào lúc nhập lễ, Dâng lễ, Rước lễ. Đây là ba thời điểm mà cộng đồng thực hiện ba cuộc diễn hành (x. Qui chế Tổng quát Sách Lễ Rôma” các số 25,26,50,56i)
    a. Số 26 : Ca nhập lễ sẽ được hát luân phiên giữa ca đoàn và cộng đồng, hoặc giữa ca xướng viên với cộng đồng, hoặc cả cộng đồng chia làm hai bên, hoặc chỉ luân phiên trong ca đoàn chia làm hai nhóm. Có thể dùng Đối ca với Thánh vịnh đã được chỉ định trong Sách lễ. (tức cuốn “Graduale Romanum” hoặc cuốn “Graduale simplex”).
    b. Số 50 : Khi rước lễ vật lên thì hát ca Dâng lễ và kéo dài ít là tới khi đã đặt xong lễ vật lên bàn thờ. Thể thức hát giống như hát Ca Nhập lễ.
    c. Số 56i : Đang khi linh mục và giáo dân rước lễ thì hát Ca Hiệp lễ, làm cho việc tiến lên rước lễ có vẻ huynh đệ. Có thể dùng Đối ca với Thánh vịnh đã được chỉ định trong Sách lễ.

    V. THÁNH VỊNH CÓ HALLELUIA (Psalmus alleluiaticus)

    A) CƠ CẤU.
    1- Đây là hình thể Thánh vịnh có Đáp ca, nhưng ỡ đây Đáp ca là ý nhạc được dệt trên chữ Halleluia.
    2- Trong hầu hết các trường hợp thì ý nhạc được dệt trên hai chữ Halleluia, như :
    3- Cũng có trường hợp Đáp ca gồm một chữ Halleluia.
    4- Như chúng ta đã biết, mỗi câu Tv đều được cắt ra làm hai, để khi hát chúng ta có thể ngắt lấy hơi, cho nên có trường hợp khi hát xong nữa câu đầu của câu Tv, thì nhạc sĩ cho chúng ta hát Đáp ca Halleluia, sau đó hát tiếp nữa câu Tv còn lại, rồi mới hát Đáp ca Halleluia thứ hai. Hai Đáp ca này chỉ được dệt trên một chữ Halleluia thôi.
    B) ỨNG DỤNG SÁNG TÁC.
    Thí dụ sau trích từ tập “Thánh ca Phụng vụ Tuần thánh” của Lm Tiến Dũng .

    VI. ĐỐI CA HALLELUIA VỚI TV (ALLELUIA hoặc ANTIPPHONA ALLELUIA CUM VERSIBUS)
    A) CƠ CẤU.
    1- Đây là thể loại Đối ca với Tv. Nhưng cung điệu Đối ca ỡ đây được dệt trên 2,3 chữ Halleluia thành câu nhạc có đầu có đuôi, như đã nói về Đối ca.
    2- Đối ca Halleluia chúng ta đang bàn tới là để hát trước khi công bố Tin Mừng trong Thánh lễ, nên tất cả các Đối ca Halleluia này chỉ hat với 2 câu Tv. Vì vậy tiếng La-tinh mới gọi là Antiphona alleluia cum versibus (Đối ca Halleluis với những câu Tv) chứ không gọi là Antiphona alleluia cun psalmo suo (Đối ca Halleluia với Tv) :
    B) ỨNG DỤNG SÁNG TÁC.
    Sau đây là bài Đối ca Hiệp lễ ngày lễ Phục Sinh trong “Thánh ca Phụng vụ Tuần thánh”.
    Chú ý : Bời vì là ngày lễ Phục Sinh, nên bản văn của Đối ca Hiệp lễ có thể chỉ gồm 3 chữ Halleluia. Cho nên khi hát Đối ca Halleluia xong, chúng ta hát ngay câu Tv thứ nhất, như các Đối ca Nhập lễ và Hiệp lễ khác.

    VII. THÁNH VỊNH HÁT MỘT LÈO (TRACTUS)

    1- Theo tiếng La-tinh thì “tractus” nghĩa là một lèo. Tức là Tv được hát một lèo, câu nọ tiếp câu kia, mà không có Đối ca hoặc Đáp ca xen vào giữa.
    2- Ở đây Tv tiếng La-tinh được hát theo 8 cung cổ truyền viết theo 8 MODUS Bình ca.
    3- Trong những ngày Chủ nhật Mùa Chay, sau bài đọc 2, có thể hát : hoặc psalmus responsorius, hoặc Antiphona acclamationis, hoặc Tractus.

    VIII. HÌNH THỂ ĐỌC (TONI COMMUNES)

    Trái với hình thể tụng kinh dùng cho các bản văn có tính chất thơ như các Thánh vịnh, Thánh ca Cựu Ước, Thánh ca Tân Ước (Magificat, Benedictus, Nunc dimittis,...), hình thể đọc dùng cho các văn bản có tính cách văn xuôi. Người ta gọi chung các cung đọc là “Toni Communes” (Récitatifs liturgiques) và chia làm hai loại: Cung đọc trong Thánh lễ (Toni Communes Missae) và cung đọc trong các nghi thức phụng vụ khác (Toni Communes Ordinarii officii). Sau đây chỉ liệt kê một số cung đọc thông dụng, và không đi vào chi tiết, vì việc nghiên cứu ứng dụng cung đọc là một công việc phức tạp và lâu dài.
    A) CUNG ĐỌC DÙNG TRONG THÁNH LỄ.
    1- Cung nguyện (Toni Orationum) chia ra làm 4 loại : Cung ngày lễ (Toni festivus), Cung ngày thường (Toni Ferialis), Cung trọng (Toni solemnis), Cung thường (Tonus simplex). Ngoài 4 Cung nguyện trên ta còn phải kể các Cung nguyện đặc biệt : Kinh tiền tụng (Toni Praefationum), Khúc mở đầu của lễ Phục Sinh (Proeconium Paschale), Kinh mời gọi (Invitatorium).
    2- Cung sách : Cung tiên tri (Tonus Prophetiae), Cung thánh thư (Tonus Episstolae), Cung Phúc âm (Tonus Evanggelii) chia làm Cung thường, Cung trọng, Cung cổ, Cung thương (Passio).
    B) CUNG ĐỌC TRONG CÁC HÌNH THỨC PHỤNG VỤ KHÁC :
    Cung bài đọc (Tonus Lectionis), Cung yến huấn, Cung xá giải, Cung chúc phúc, Cung khởi ngôn, Cung than (Lamentatio),...


    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    + Tập giáo trình dùng cho lớp Thánh nhạc và Bình ca của Lm Tiến Dũng.
    + Tôi viết ca khúc tiếng Việt, Tiến Dũng.
    + Thánh ca Phụng vụ Tuần thánh, Tiến Dũng.
    Chữ ký của dominico_dung
    "ĐỪNG SỢ, BỞI VÌ CHA GỌI ĐÍCH DANH CON" (Isaia 43,1)

  2. Được cám ơn bởi:


Tags cho chủ đề này

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com