|
|
SỰ GANH ĐUA GIỮA CÁC LÀNG
Nỗi nguy hiểm mà chúng tôi nói đến đâu có thể coi thường được, nên vào một ngày tháng 7.1858, Đức Giám mục được một cha sở ở vùng chung quanh Lộ Đức báo cho biết về những trường hợp cả tập thể bị kích động vừa xảy ra. Những thị kiến siêu nhiên mới đây đây đã leo thang, không phải chỉ ở Lộ Đức, mà còn ở những làng lân cận nữa. Tại Lộ Đức, biết bao người nghĩ rằng họ sẽ trổi vượt hơn cô bé Bernadette nghèo nàn, vì theo sự suy nghĩ của quần chúng, cô khó mà xứng đáng được Đức Trinh Nữ ưu tiên chọn hơn những người khác.
Ngày 9.7, cha sở họ Ossen là Pierre Junca viết cho Đức Cha Laurence một lá thư trình bày cho ngài biết những gì đang xảy ra trong họ đạo của cha.
Một thiếu niên 10 tuổi tên Laurent Lacaze muốn tới Hang Đá sau khi học hành buổi sáng ở trường. Hôm đó là ngày 2.7, nó nài xin cha mẹ cho phép đến nỗi hai ông bà đã nhượng bộ nó. Vào giữa trưa, Laurent cùng với đứa em trai 8 tuổi của nó tới trước Hang Đá. Nó lần chuỗi. Khi ngước mắt lên, nó thấy “một phụ nữ mặc áo trắng, tay trái bồng một em nhỏ. Em nhỏ này tay phải cầm một cụm ba bông hồng đỏ, đầu đội một mũ trùm đỏ có ba bông hồng trắng được buộc bằng một băng vải đỏ.. Người nữ tay mặt cầm một cụm ba bông hồng đỏ. Cánh tay phải có quàng một băng vải lớn màu đỏ có viền hoa, và thõng xuống một tràng hạt xinh xắn. Bà đội mũ trùm đầu màu trắng được trang hoàng bằng một băng vải trắng. Hai bên bà là hai người đàn ông, một người đứng bên phải, một người bên trái, đều mặc đồ đen, đầu đội bê-rê xanh. Đàn ông bên phải có bộ râu dài trắng. Người phụ nữ và hai người đàn ông đều mang giầy đen".
Trong lá thư của cha sở có ghi toàn bộ mô tả trên. Cậu bé lacaze có nhiều thì giờ để thấy chi tiết cái thị kiến lạ lùng của cậu. Người phụ nữ yêu cầu cậu phải trở về ban chiều. Cậu đã vâng lời. Và cậu lại thấy những nhân vật ban sáng, và tất cả những người đó đi theo cậu trên con đường hướng về làng Ossen, mang theo đứa nhỏ và mẹ nó đi với cậu. Dọc đường, người phụ nữ đùa với những trò vui vẻ trẻ con của Laurent... Những ngày kế tiếp, Laurent Lacaze lại đến thăm viếng Hang Đá, và lại thấy những người đó hiện ra. Nhưng kể từ đấy, có nhiều người vây quanh nó. Người ta đi theo nó thành một đám rước. Được báo tin, cha sở nghĩ rằng cần phải rảy nước thánh lên cậu bé và lên nơi mà nó nói là thấy người phụ nữ đó. Nhưng dường như không có kết quả bao nhiêu.
Đó là những câu chuyện nghe phát chán. Nhưng dân chúng Ossen láo nháo cả lên. Người ta ghét cha sở vì ngài tỏ ra nghi ngờ. Còn cha thì phải hỏi ý kiến Đức Giám mục để biết phải hành xử ra sao. Trong thời gian đó, lại có những em khác thấy ảo kiến nữa: Jean-Marie Pomiès, 13 tuổi và Jean-Marie Sarthe, 10 tuổi. Cậu sau ở làng Ségus, một làng khác gần bên. Nhưng những thị kiến của nó không kéo dài. Cha sở và nhiều người khác ra lệnh cho nó ở nhà. Nó vâng lời và mọi sự đều chấm dứt.
Hai đứa trẻ làng Ossen, trái lại, tiếp tục việc làm sai trái của chúng. Người ta nói với chúng tôi về hai đứa đó như sau: "Trong một thời gian khá lâu, chúng bị theo đuổi và ám ảnh bởi cuộc hiện ra đó. Ngoài đường cũng như trong nhà, chúng chạy theo "đấng hiện ra" như thể chúng săn đuổi "ngài". Tiếng kêu la của chúng thường giống như những tiếng tru tréo, cử chỉ cũng như những vận động của chúng không luôn luôn hoà nhịp với nhau. Nhiều lần người ta cảm thấy chướng mắt vì những cái họ thấy không thích hợp và mất trật tự. Cha mẹ chúng cứ ngỡ là mấy đứa con của mình thấy Đức Trinh Nữ thật, nên tự ái của họ, sự hãnh diện của họ đã góp phần làm cho những cảnh đáng tiếc này lâu chấm dứt".
Những dòng chữ đó là của cha sở họ Ségus.
Ông Jean Vergez, thôn trưởng làng Ossen, cũng quan sát những gì xảy ra về phía ông. Cha Cros đã thuật lại những lời chứng của ông như những gì ta vừa thấy. Rõ ràng là cậu bé Lacaze thực sự có những thị kiến. Những người chứng kiến không thể nghĩ gì khác hơn cho đó là Đức Trinh Nữ hiện ra. Tại sao lại không thể nghĩ như thế? Chẳng lẽ chỉ có Bernadette Soubirous là độc quyền thấy ngài sao? Cha mẹ của Laurent Lacaze không cho Bernadette là độc quyền. Ông thôn trưởng tìm hiểu họ, và viết:
"Gia đình Lacaze không làm việc. Họ vui vẻ, nhất là người cha, về những gì xảy ra cho đứa con của họ. Buổi tối tôi gặp cha của Lacaze đi cắt cỏ. Tôi nói với ông: 'Ông đã mất một ngày'. Ông ta trả lời: 'Phải, nhưng tối thiểu chúng tôi được một xã hội tốt đẹp ở nhà, xã hội của Đức Trinh Nữ'.
Nhưng không phải chỉ có thế. Theo sự xác nhận của ông thôn trưởng, thì trong đám trẻ con trong làng, có những chuyện đáng ngạc nhiên. Chẳng hạn, Laurent Lacaze, chỉ biết nói thổ ngữ, hiện đang học tiếng Pháp. Nhưng còn cái đáng ngạc nhiên hơn. Hãy nghe ông thôn trưởng nói:
"Một hôm tại nhà Lacaze, Jean-Marie Pomiès, một cậu bé 13 tuổi, đang đứng cách cái cửa sổ trổ ra sân gà vịt khoảng 2 mét. Cửa này cao 60cm, rộng 43cm, và cao cách mặt đất hơn 1 mét. Bỗng nhiên đứa trẻ nhìn qua cửa sổ đó thấy Đức Mẹ hiện ra trong sân gà vịt, thế là tôi thấy nó nhảy qua cửa sổ nhanh như một mũi tên, không đụng vào thành cửa sổ, và đáp xuống bằng chân trong sân gà vịt, rồi chạy theo 'đấng hiện ra'.
Cảnh tượng này làm tôi kinh sợ đến nỗi tôi ra về ngay, và khi về tới nhà, tôi nói với vợ tôi: 'Anh không thể nào tin vào những chuyện này được. Anh sẽ không trở lại đó nữa'".
Cha Cros có đưa ra những lời chứng về chính sự kiện đó. Ngài quả quyết rằng ngài đã khảo sát các nơi và thấy có những sự kiện "không thể giải thích theo cách tự nhiên được". Ngài thêm rằng các em bị ảo kiến đó còn có một quái trạng chung khác: chúng sợ những tràng hạt đã làm phép, và chỉ thích những tràng hạt mới chưa làm phép. Không đồ vật đã làm phép nào trao cho chúng mà được trả lại bao giờ.
Đức Cha Laurence đã nhận được những bài tường thuật xác thực và chi tiết về tất cả những sự kiện này. Ngày 12.7.1858 ngài trả lời cho cha sở Ossen:
"Tôi coi hai em bé Lacaze và Pomiès bị ảo kiến như bị bệnh thần kinh. Cần phải đối xử với chúng như vậy. Không có gì là siêu nhiên trong những cái chúng thấy được cả, tôi phán đoán như vậy chắc chắn không sai. Một Đấng ở trên trời không thể nói những lời vô nghĩa, không đùa giỡn, cũng không suồng sã. Nếu những trẻ em này nói hay làm những gì không xứng hợp, thì phải rầy la và đối xử nghiêm khắc với chúng".
Nhưng Đức Giám mục sẽ phải sửa đổi mệnh lệnh của mình trước khi được dân chúng đón nhận và tuân giữ. Những người bị ảo kiến ở Ossen còn tiếp tục những trò kì cục của họ một thời gian nữa. Càng ngày càng có thêm các chứng cớ cho rằng người ta theo phe các tiên tri trẻ, ngưỡng mộ chúng, nghe lời chúng. Người ta quì gối xuống khi đi ngang qua nhà Lacaze, để cầu nguyện với Đức Trinh Nữ. Người ta thích ngủ cùng phòng với các em có ảo kiến. Tại toà giảng, cha sở có nói về lá thư của Đức Giám mục, nhưng vô ích. Lá thư nói rằng cần phải cấm các trẻ em dưới 15 tuổi tới Hang Đá, và không cho phép những đứa khác liên lạc với những đứa bị ảo kiến. Người ta không chịu tin lời cha sở cho tới khi ngài đưa cho họ xem thấy lá thư. Em gái cha sở là Francoise Junca còn thêm: "Các làng lân cận còn ghen với làng Ossen. Còn chúng tôi, chúng tôi phải chịu trách nhiệm về việc này: anh tôi mất ngủ vì nó".
Trong câu nói trên, ta thấy có sự ghen tương của các làng khác đối với làng Ossen. Một sự ghen tương kiểu đó cũng xảy ra đối với làng Lộ Đức.
Một phụ nữ ở làng Omex, một làng lân cận khác, kể lại: "Một hôm tôi đứng trước Hang Đá. Các trẻ em bị ảo kiến ở Ossen và nhiều em khác ở Lộ Đức đang ở trong hốc đá, nơi ma quỷ hiện ra với chúng. Bỗng nhiên từ trong lỗ hổng phát ra một giọng nói rất nhỏ nhẹ, giống như giọng nói của một đứa trẻ dễ thương. Giọng đó nói: 'Trong thung lũng Batsurguère, và nhất là ở Ossen, có rất nhiều người dũng cảm, còn ở Lộ Đức thì chỉ toàn là đồ hạ tiện thôi'. Lúc đó tôi nói trước mặt mọi người: 'Người nào nói như thế thì còn ma quỷ hơn cả ma quỷ nữa. Đức Trinh Nữ không coi thường ai, càng không coi thường những người cần ăn năn hối cải'".
Những người chứng kiến bị dao động và chia rẽ nhau. Một phụ nữ làng Ossen cảm thấy mát ruột vì những lời nịnh nọt chị vừa nghe, đến nỗi chị muốn biến đổi phòng mình thành một nhà nguyện kính Đức Mẹ nếu ông chồng của chị không phản đối. Người đàn bà khốn khổ ấy cuối cùng bị điên và chết năm ấy.
Chúng tôi nói về những sự việc ấy đủ để người khác có thể đo lường được phần nào sự lan rộng những rối loạn do biết bao nhiêu trò ma quỷ như thế gây ra tại Lộ Đức và những làng kế cận, và để người khác hiểu được sự thận trọng mà vị Giám mục cần thiết phải có để nhận ra được phương hướng giải quyết trước tất cả những biểu hiện kì quái ấy của ma quỷ. Nếu ma quỷ muốn làm giảm uy tín việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette bằng cách trộn lẫn vào đó vô số những lần hiện ra giả hiệu kì quái, thì có thể nói ma quỷ đã gần đạt được mục đích của nó. May thay, Đức Cha Laurence đã không quá nghiêm khắc. Ngày 28.7.1858, ngài kí một lệnh chỉ thành lập một uỷ ban điều tra việc Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức. Nhưng điều đáng lưu ý ngay từ nguyên tắc là uỷ ban này đã chỉ định đích danh một mình Bernadette làm đối tượng cho việc điều tra có tính cách quyết định này.
Theo lệnh chỉ, vấn đề là không phải vô số các sự kiện mà chúng tôi đã sưu tập trong chương này. Dưới mắt của những người có đầu óc thì tất cả những chuyện đó chỉ là tưởng tượng, là khoác lác, là kì cục, và có thể la ma quái. Thấy chúng được sưu tập ở đây, độc giả có thể ngạc nhiên về số lượng của chúng, về những tiếng đồn, về sự lạ thường của chúng, và có thể nhờ phản tỉnh, quan niệm được những ấn tượng không đẹp về những chuyện xảy ra ở Lộ Đức. Tuy nhiên nếu độc giả suy tư về chuyện đó, thì độc giả sẽ chỉ xúc động nhiều hơn khi thấy bóng tối dày đặc như thế đã bị xua tan và ánh sáng tỏ hiện một cách hết sức đơn giản và dường như hết sức tự nhiên.
Uỷ ban của các Giám mục bắt đầu ngay công việc của mình. Vì mọi người đều nhận thấy sự đơn sơ, kiên trì, thẳng thắn và sự chân thực rất rõ ràng nơi Bernadette, và mặt khác vì những phép lạ xảy ra ở Hang Đá thời gian đó lần này được công nhận là phép lạ đích thực thật là kì diệu, nên chỉ trong vòng hơn 3 năm, Đức Cha Laurence đã long trọng công nhận những biến cố Lộ Đức y như chúng ta đã được biết đến qua cuộc sống của Bernadette.
Nhưng chắc chắn độc giả sẽ hiếu kì muốn biết những xảy đến cho đám người bị ảo kiến mà ma quỷ đã lợi dụng để khai thác trong toàn vùng Lộ Đức suốt nhiều tháng trời đó. |
|