|
Bài 9
Nhạc trẻ
Trong khoảng gần 2 thập kỷ nay, trong các sinh hoạt âm nhạc đạo và đời tại Việt Nam, người ta hay nhắc tới hai chữ “nhạc trẻ” : Ban “nhạc trẻ”, phong cách “nhạc trẻ”, tuyển tập “nhạc trẻ”,... có người thích gọi đó là “nhạc thời trang” và cho rằng đó mới là “mode” của thời đại. Có người gọi đúng bản chất của nó là “nhạc kích động”. Vậy thực chất “nhạc trẻ”, “nhạc thời trang” hay “nhạc kích động” là gì ?
Đó chẳng qua là loại nhạc JAZZ phát sinh từ Mỹ vào đầu thế kỷ 20 này, cũng như các loại nhạc phát xuất từ JAZZ như ROCK, POP, DISCO,... mà ta sẽ lần lượt đề cập tới trong bài này. Các thứ âm nhạc này đối với người Âu Mỹ quả là “Cũ rích”, nhưng đối với người VN chúng ta vẫn còn là mới mẻ, trẻ trung (do đó mới có tên “nhạc trẻ” hay “nhạc kích động”), cũng như là một loại nhạc dễ học, dễ trình diễn, dễ thưởng thức, và do đó dễ biến đổi thích ứng với mọi hoàn cảnh, mọi thời đại (chính vì thế “nhạc trẻ” còn có tên là “nhạc thời trang”). Để tiện lợi ta tạm gọi các thứ âm nhạc trên dưới danh xưng chung là nhạc JAZZ (đương nhiên, tùy lúc, ta sẽ nêu lên sự khác biệt giữa JAZZ, ROCK, POP, DISCO,..)
I. JAZZ LÀ GÌ ?
Cho đến nay, người ta chưa biết rõ đích xác từ JAZZ do đâu mà ra. Lúc đầu có người gọi là JASS, có người gọi là JAZS hoặc JAZ. Có hai giả thuyết : 1- JAZZ do tiếng Pháp “Jaser” có nghĩa là : nói chuyện gẫu, nói líu lo, nói ba hoa, nói xàm nói bậy,... 2- Kiều dân da đen ở New Orleans và Louisiana dùng từ JAZZ (mà có lẽ gốc Phi châu) với ý nghĩa “làm một việc gì cách hấp tấp, vội vã, nhanh nhẩu”. Áp dụng vào âm nhạc, đôi khi ám chỉ loại nhạc dùng nhiều đảo phách. B) THEO NGHĨA RỘNG NHẤT : Đó là những hình thể của loại nhạc Pop của thế kỷ 20, gắn liền với nhạc khiêu vũ bình dân về phương diện lịch sử và phương diện thương mãi. C) THEO KHÍA CẠNH CHUYÊN MÔN : Đó là các bút pháp âm nhạc được đặc trưng bởi : giai điệu có độ dài tiêu chuẩn, tiết tấu phức tạp và dùng nhiều đảo phách, hòa âm và phối khi chiết trung, lối trình tấu tiêu chuẩn rất đa dạng, đi từ những công thức vụng về đến những sáng tạo rất kiệt xuất. D) ĐỐI VỚI GIỚI HÂM MỘ (MƠN ĐỒ NHẠC JAZZ) : Đó là loại nhạc Afro-Américain đầy sự tươi mát và diễn cảm, sử dụng giọng người một cách tự do, khai thác tối đa khả năng của các nhạc khí và đề cao sự ứng tác ngẫu hứng. Đó là một tổng hợp âm nhạc lấy từ những chất liệu da đen và da trắng ở Mỹ châu trước, sau và trong suốt thế chiến thứ I; cũng có thể phát xuất từ âm nhạc của những người da đen và kiều dân da đen ở New Orléans vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, pha trộn với các loại âm nhạc nguồn gốc Mỹ La-tinh, Au châu và Phi châu,... F) ĐỐI NGƯỜI BẮT ĐẦU TÌM HIỂU : JAZZ không hẳn là loại nhạc gì cho bằng là phong cách chơi nhạc như thế nào. Chẳng hạn một tác phẩm hoàn toàn cổ điển (như một khúc aria của một vở Opera, một chương của một bản giao hưởng, hay thậm chí một bài Chorale,...) có thể chơi theo phong cách JAZZ. Trái lại một tác phẩm JAZZ do một nhạc sĩ JAZZ thiên tài soạn ra, có thể không được trình tấu theo phong các JAZZ. Vậy phong cách JAZZ là gì ? - Phong cách trình tấu của một nhạc sĩ JAZZ chân chính là : sự nhạy bén đối với mọi loại tiết tấu phong phú phức tạp, đa dạng, đặt nền tảng trên tiếng BEAT cơ bản + khả năng ứng tác ngẫu hứng rất dồi dào + thông thạo nhiều kỹ xảo đàn hát + trực giác, ứng biến mau.
II. GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ SỰ RA ĐỜI CỦA NHẠC JAZZ.
JAZZ manh nha từ cuối thế kỷ 19 trong môi trường của các loại âm nhạc : RAGTIME, WORK CHANTS, SPIRITUALS và HYMNS, BLUES THEMES và MARCHES, xuất phát từ người da đen ở Miền Nam nước Mỹ. Ngoài ra còn phải kể thêm : MINSTREL, tiết tấu Phi châu, dân ca cổ truyền, kể cả các chủ đề của nhạc khiêu vũ Âu châu. 3 trào lưu sau đây ảnh hưởng rõ rệt và trực tiếp nhất đến sự ra đời của nhạc JAZZ : A) NEGRO SPIRITUALS (hay GOSPEL SONG) : Vào những thời kỳ dầu tiên của chế độ nô lệ, các nhà truyền giáo Tin Lành và Công Giáo đã dạy cho những người nô lệ da đen những bài “hymnes Wesléyens và Méthodistes”, những bài Chorales, cũng như những bài Thánh ca La-tinh. Người da đen biến cải giai điệu, hòa âm và tiết tấu của các bài này (chủ yếu mang đặc tính Âu châu) cho phù hợp với giai điệu và tiết tấu Phi châu; chẳng hạn : thêm nhiều đảo phách, bổ sung vào hợp âm 3 trưởng bậc VII giáng, sử dụng thường xuyên những hợp âm V7 song song mà không giải quyết.. Từ đó phát xuất ra thể loại “NEGRO SPIRITUALS”. Sau chiến tranh Nam-Bắc bắt đầu hình thành những nhóm hát NEGRO SPIRITUALS mà nổi tiếng hơn cả là nhóm “Jubilee Singers” (1870) của đại học Fisk. Có hai khuynh hướng đối nghịch nhau trong việc hát NEGRO SPIRITUALS : 1- Trình diễn theo lối hát “bel canto” của Âu châu. Tiêu biểu là ca sĩ Marian Anderson. 2- Trình diễn theo nhóm hát (gồm khoảng 4 đến 7 ca sĩ) : nhấn mạnh đến tiết tấu và sự diễn cảm của ca khúc, ảnh hưởng đến JAZZ sau này. Các ca sĩ thuộc nhóm hát này thường vỗ tay hoặc giậm chân để giữ nhịp. Tiết tấu trong các giai điệu mà họ trình diễn phát triển vượt ra khỏi sự phân nhịp bình thường. Toàn bộ biến chuyển của giai điệu và lời ca đều tuân theo đòi hỏi của một tiết tấu độc đáo : 1 vần bị rút ngắn, vần khác được kéo dài, 3 vần còn lại hoàn toàn bị nuốt. Với một âm hình giai điệu cố định được nhắc đi nhắc lại (tiền thân của kỹ thuật RIFF), người ta nghe thấy điểm đều tiếng trống cái châu Phi. Do sự vắng mặt của bậc III, bậc VII, âm thể luân chuyển giữa trưởng và thứ. Phần đệm của piano đảm nhiệm, đối khi được thay thế bằng orgue và thỉnh thoảng bằng guitar. Các nhạc sĩ JAZZ sau này đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của NEGRO SPIRITUALS, cụ thể là : + Họ mượn lại một số lớn công thức tiết tấu, hòa âm giai điệu. + Nghệ thuật “vocaliser” của NEGRO SPIRITUALS đã ảnh hưởng lên một số nhạc sĩ JAZZ và hấu hết nhạc sĩ ROCK and ROLL kể từ 1955. + NEGRO SPIRITUALS và JAZZ đôi khi hòa lẫn với nhau thành một thể thống nhất như trong chương 2 của tổ khúc “Black, brown and beige” (1944) của Duke Ellington. Đó là một lối chơi piano rất thịnh hành vào khoảng 1900. Các nhạc công xem piano như một nhạc cụ gõ. Họ không thích sắc thái nhẹ nhàng, không ưa legato, không ưng kiểu móc nối hòa âm một cách đều đặn. Họ lúc nào cũng dậm pédale. RAGTIME là một lối chơi với tốc độ vừa hoặc nhanh và đặc biệt là rất nhiều đảo phách : tay trái nhẩy những hợp âm đệm, hợp âm trầm ở các phách mạnh, hợp âm cao hơn ở những phách yếu, bắt chước các nhạc cụ thuộc bộ gõ; trong khi tay phải lướt những giai điệu rất nhiều đảo phách và nhiều dấu hoa mỹ đủ loại, gợi lại âm thanh của cây xylophon và đàn Xan Phi châu. RAGTIME thường gồm nhiều nhạc đề nối với nhau bằng những đoạn “interludes” dài 2 hay 4 ô nhịp. Người ta còn phân biệt 2 loại RAGTIME:
1- Primary Rag: Ở chỗ nhấn của ô nhịp là một dấu nhạc vắn, ở chỗ không nhấn là một dấu nhạc dài. Đó là hình thức tiêu biểu và cơ bản của đảo phách. 2- Secondary Rag: Đi xa hơn : cùng một lúc sử dụng 2 mẫu tiết tấu khác nhau và độc lập với nhau. Chẳng hạn giai điệu ở nhịp 3, trong lúc bè đệm ở nhịp 2. Khi phát triển ra như thể trong nhiều ô nhịp, Secondary Rag vượt ra khỏi phạm vi của đảo phách thông thường, và tiến đến kỹ thuật đa tiết tấu (polyrythmus). Lúc đầu lối chơi RAGTIME thường được dùng để đệm cho các vũ điệu “Cake-walk” và “Coon song”, do đó sau này các điệu vũ đó còn được gọi là điệu RAGTIME. RAGTIME còn mượn lại các kỹ thuật hòa âm và một số giai điệu cũng như tiết tấu của âm nhạc Âu châu (như Marche, Menuet, Polka, Quadrille,...) Trong thời kỳ cực thịnh của RAGTIME, đa số các bản nhạc đều được viết ra thành bài bản và được trình tấu không có ngẫu hứng. RAGTIME cũng được diễn tả bằng dàn nhạc. Do đó, lúc đầu khi dàn nhạc JAZZ mới thành hình, người ta lẫn lộn “orchestre de rag” và “orchestre de jazz”. Nhạc sĩ tiên phong nỗi tiếng nhất của RAGTIME là Scott Joplin với bản “Maple leaf rag” (1889) đến bây giờ vẫn còn được trình diễn. Về sau có James P. Johnson : “Carolina shout” (1921), “Jingles” (1930); Jelly Roll Morton : “King Porter stomp” (1926); Fats Waller : “Valentine stomp” (1929); Eubie Black : “Ragtime rag” (1958). Cùng với RAGTIME, BLUES là một trong hai nguồn gốc gần và trực tiếp của JAZZ. Đầu tiên BLUES là một loại “vocal music” của người da đen ở miền Nam nước Mỹ,, bắt chước những tiếng la, tiếng khóc, tiếng hò hét. Sau đó BLUES lại chịu thêm ảnh hưỡng của “work song” (trong toàn bộ) và NEGRO SPIRITUALS (về hòa âm). Vì bắt nguồn từ người nô lệ da đen, nên chủ đề của nhạc BLUES thường là : thương xót cho thân phận nô lệ, cho tình yêu đã mất, nỗi niềm hoài hương, thất vọng, chống đối, phản kháng,... Sau đây là một số đặc trưng của nhạc BLUES : 1- Thường dùng nhạc đề dài 12 ô nhịp thay vì 8 hay 16 ô nhịp, gồm 3 câu, 4 ô nhịp, theo mô hình AAB, tiến triển theo một cấu trúc hòa âm nhất định. Chẳng hạn : 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
C C C C F F C C G7 F C C+G7 2- Nền tảng hòa âm dựa trên các hợp âm căn bản, tức trên các hợp âm bậc I, bậc IV, bậc V. Đội khi sử dụng cả những công thức hòa âm đồng chuyển. 3- Sỡ dỉ có các móc nối hợp âm đồng chuyển này là do sự du lịch của hai bậc III và bậc VII của thang âm trưởng : 2 bậc này lúc thì bình thường, lúc thì bị giáng xuống nữa cung, làm cho thang âm có tính chất lúc trưởng, lúc thứ. Bậc III và bậc VII được giáng xuống như vậy gọi là các “blue notes” (nghĩa là các “dấu nhạc buồn”, do chữ “blue” có nghĩa là buồn rầu, thất vọng). Việc sử dụng các “blue notes” đã tạo nên một cảm giác buồn bã đặc biệt của người da đen, và gây ra một bầu không khí gọi là “bluesy”. 4- Tiết tấu ít staccato, và tempo thường chậm hơn RAGTIME. 5- Đặc biệt sử dụng kỹ thuật BREAK (sau này JAZZ rất ưa dùng) : đó là một đoạn Cadenza ngắn, ứng tác ngẫu hứng, chứa đựng nhiều đảo phách. Người ta thường hay dùng lầm lẫn từ BLUES để gán cho những tác phẩm có tempo chậm trong khi chúng lại không có tính chất BLUES. Người Mỹ đen dùng câu “I have the blues” để nói rằng trạng thái tâm hồn của họ là buồn rầu và thất vọng. Các tác phẩm BLUES tiên khởi nỗi tiếng là “Memphis BLues” (1912), “St Louis Blues” (1914) của William Christopher Handy; “Blue Light” và “Black and Tan Fantasy” (1927) của Duke Ellington. Nhạc JAZZ đã ra đời như là sự tổng hợp một số yếu tố của RAGTIME cùng với một số yếu tố của BLUES. Cụ thể là nó giữ lại các mẫu tiết tấu của RAGTIME, đặc biệt là secondary Rag, và tuyến giai điệu của BLUES, đặc biệt là âm thể “blue”. Cũng từ BLUES, JAZZ đồng thời rút tỉa được tính chất diễn cảm của Tempo Moderato (Slow blues) và khả năng tự do biến tấu của kỹ thuật BREAK.
III. GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHẠC JAZZ.
Ngay từ lúc mới phát sinh, JAZZ đã có khuynh hướng là “HOT JAZZ” : tương đối không có khuôn khổ, đề cao sự ứng tác ngẫu hứng (ngoại trừ các móc nối hợp âm cơ bản), trong đó, mặc dù dựa trên những chủ đề âm nhạc bình dân có sẵn, các nghệ sĩ vẫn độc lập một phần hoặc hoàn toàn đối với các bè viết sẵn. Một ban nhạc HOT JAZZ có thể lựa chọn trước một nhạc đề như điễm xuất phát, sau đó khai triển nhạc đề này một cách tự do theo cảm hứng bộc phát của mỗi nghệ sĩ trong các giai đoạn tiếp theo. Việc khai triển nhạc đề có thể xảy ra theo hai cách. 1- New-Orleans style: Tất cả mọi nhạc khí đều được tự do đi theo tuyến giai điệu và tiết tấu riêng của mình, độc lập với các nhạc cụ khác. Thông thường là nhóm nhỏ (từ 5 đến 7 nhạc công) giao vai trò ứng tác ngẫu hứng cho 3 cây trompette, trombone, clarinette. Về tiết tấu, nhấn mạnh cả 4 phách của ô nhịp, với một sự không cân bằng giữa phách mạnh và phách yếu (phách mạnh được ghi động bằng một hợp âm cao, đầu tiên là do đàn banlo phụ trách). Được trình tấu một cách đơn sơ, tươi mát, vui vẻ, kèm theo khiêu vũ. Các nhạc công tiêu biểu của nhóm này là Louis Armstrong, Sidney Bechet, Freddie Keppard, King Oliver, Jelly Roll Morton : “King Porter stomp” (1906), “Tiger Rag” (1917). 2- Chicago style: Năm 1917, Storyville bị đóng cửa, một số nhạc sĩ New-Orleans di cư lên phía bắc, đến Chicago, trong đó có Keppard, King Oliver, Luois Armstrong Jimmie Noone, Jelly Roll Morton. Và vào những năm 1920, họ đã ghi âm được một số tác phẩm. Song song với các nhạc sĩ da đen, một số nhạc sĩ da trắng hâm mộ JAZZ đã tạo ra “Chicago style” (1924-1930). Họ lấy hứng từ các tác phẩm của các nhạc sĩ da đen và tạo ra lối ngẫu hứng tập thể : hầu hết các nhạc công luân phiên nhau độc tấu nhạc đề, trong khi những nhạc công còn lại sẽ giữ phần đệm và nền cho những nhạc công độc tấu. Nhóm này chỉ khác nhóm da đen ở chỗ : họ có nhiều tham vọng hơn về kỹ thuật và giữ nhiều mối liên hệ hơn với các thể loại âm nhạc Âu châu cũng như dân da trắng (skiffle, hillbillies). Các nhạc sĩ da trắng thuộc nhóm Chicago Style chuẩn bị cho sự chuyển tiếp sang nhạc JAZZ của những năm 1930 (MIDDLE JAZZ). New-Orleans Style và Chicago Style thường được gọi là CLASSIC JAZZ Style hay TRADITIONAL Style. B) SWEET JAZZ (hay Straight Jazz) : Phản ứng chống lại sự ồn ào nào nhiệt của HOT JAZZ, tôn trọng tối đa giai điệu của nhạc đề. Ho hy sinh sự tự phát và tự do cá nhân cho sự êm dịu và trình diễn quy ước. SWEET Band thường dùng các bản phối dàn nhạc đầy đủ, các nhạc công tôn trọng tối đa bè phối dàn nhạc của mình. Họ cũng đưa vào dàn nhạc những nhạc khí êm dịu như Arpa, Chimes, Celesta, đồng thời giữ lại của HOT JAZZ cây violon, xaxophone. Một vài SWEET Band trong khi vẫn giữ lại một nhóm chủ chốt gồm vài “HOT players”, lại phát triển ban nhạc đến quy mô của một dàn nhạc hòa tấu nhỏ và nghiêm túc (symphonie JAZZ). SWEET Band hầu như sử dụng đến nhiều đặc trưng của chất liệu âm nhạc đương thời không phải của người da đen : chất liệu giai điệu của thể loại Ballad tình cảm, các thể loại Opera nhẹ nhõm của trường phái Vienne, mẫu hòa âm lấy từ trường phái lãng mạn thế kỷ 19 và trường phái ấn tượng thế kỷ 20. SWEET JAZZ được khởi xướng bởi Paul Whiteman, ra mắt lần đầu ở Los Angeles 1920, với bản phối đầy đủ cho ban nhạc JAZZ. Tác phẩm hoàn chỉnh “Rhapsody in Blue” (1924) của George Gershwin theo khuynh hướng ấn tượng, sáng tác cho piano và dàn nhạc với các yếu tố JAZZ. Đây là thể loại JAZZ xuất hiện vào những năm 1930 thay thế cho những thể loại JAZZ của New-Orleans và Chicago, và thịnh hành cho tới đầu những năm 1940, khi BE-BOP xuất hiện, và vẫn tiếp tục phát triển thêm sau đó. Các nhạc sĩ ngẫu hứng của giai đoạn này khai thác các hợp âm cơ bản của nhạc đề, dựa vào một tiết tấu nhấn mạnh trên cả 4 phách một cách đều đặn và đồng bộ. Phát triển dàn nhạc đại hòa tấu đến cao độ với các bản phối dàn nhạc đã phân công rõ ràng giữa các bộ nhạc khí, sử dụng thường xuyên kỹ thuật RIFF, và dành địa vị quan trọng cho các nhạc cụ độc tấu. Người ta còn phân biệt ra 2 thể loại MIDDLE JAZZ : 1- Swing. Kể từ năm 1935, từ “Swing” được dùng để chỉ một thể loại JAZZ (ngoài ý nghĩa tiết tấu là một điệu nhạc múa), và được xem như là sự hồi sinh của thể loại HOT JAZZ, kèm thêm một chút sự suy tính, kỹ xảo và sự mượt mà. Đây là thể loại JAZZ đối lập với “Sweet music” được Benny Doodman khởi xướng. 2- Boogie-Woogie. Đây là một lối trình tấu nhạc BLUES bằng cách gấp đôi số các dấu nhạc trầm : 8 dấu nhạc bè trầm trong một ô nhịp. Lúc ban đầu, BOOGIE-WOOGIE là một phong cách chơi piano được thịnh hành vào khoảng năm 1928 ở Chicago. Phần tiết tấu basse được thể hiện bởi tay trái, trong khi tay phải ứng tác những biến khúc đơn giản hay nhưng đoạn RIFFS. Sau này BOOGIE-WOOGIE sẽ là thành phần cốt yếu của ROCK and ROLL. (Trong khi lúc ban đầu, BOOGIE-WOOGIE được dùng trong BLUES để diễn tả tiếng tàu hoả chạy). Giai đoạn từ 1930-1940 còn được gọi là “MAINSTREAM” để đối lập với Traditional và Progressive Style. Ngoài ra cũng còn được gọi là REVIVAL JAZZ với ý nghĩa là hồi sinh các thể loại của nhạc JAZZ truyền thống. D) MODERN JAZZ (hay PROGESSIVE JAZZ) : 1- Be-bop (Re-bop, hoặc Bop). Đầu tiên là một điệu trống, sau đó là một thể loại JAZZ phát sinh từ New York vào khoảng năm 1940, với những đặc tính sau : a. Từ bỏ lối nối tiếp liên tục và đều đặn của tiết tấu, không còn nhấn mạnh đến 4 phách một cách đều đều. Thỉnh thoảng có những chỗ nhấn bất thường, tô điểm và làm nỗi bật câu nhạc. Chỉ có nhạc công bè basso là vẫn giữ vững tempo, còn nhạc công piano đánh những hợp âm trệch ra ngoài 4 phách. Người đánh trống bất chợt kết thúc câu nhạc bằng những cú trống cái và trống con, còn tiếng cymbals thì cứ rì rào liên tục. b. hòa âm được mở rộng : mỗi dấu nhạc một hợp âm, âm thể phát triển quy mô hơn, thêm nhiều hợp âm hoa mỹ. c. Giai điệu là những nhạc đề - RIFF dựa theo âm hình của bộ trống : nhảy quãng đột ngột, dùng nhiều quãng nghịch, nhiều quãng đồng chuyển. Charlie Parker và Dizzy Gilleppie được xem là những nhạc sĩ đầu tiên của thể loại BE-BOP. 2- Cool Jazz : Phản ứng chống lại BOP và kế tục BOP kể từ 1948. Trở nên nhẹ nhõm hơn, mềm mại hơn, êm dịu hơn, “cool” (nguội) hơn, do công lao của Miles David. Các đặc tính của COOL JAZZ là : a. Giai điệu sữ dụng câu nhạc vắn.
b. Tiết tấu ít phức tạp hơn BOP.
c. Âm sắc êm dịu, tinh tế, uyển chuyển.
d. Kỹ thuật hòa âm và đối âm phát triển cao hơn, nhất là trong các tác phẩm của các nhạc sĩ Dave Brubeck, Theolonius Monk, Charles Mingus,... Hầu hết các nhạc sĩ này đều đã tốt nghiệp nhạc viện. Nói chung BE-BOP, COOL JAZZ và sau này là HARD JAZZ, FREE JAZZ, WEST COAST, đều bị các nhạc sĩ thuộc trào lưu MAINSTREAM xem là “Progressive JAZZ” (JAZZ cấp tiến) vì họ đổi mới phong cách ứng tác ngẫu hứng cũng như kỹ thuật phối dàn nhạc dựa trên những kỹ thuật ngoại lai đối với truyền thống Mỹ da đen. Tuy nhiên theo đa số các nhà phê bình âm nhạc, nguyên cả giai đoạn từ 1910-1950 đều được xem là giai đoạn JAZZ chính thống. Chỉ kể từ 1950 trở đi, với sự xuất hiện của nhạc ROCK, POP, FREE JAZZ, DISCO, được xem như giai đoạn kế tục JAZZ chứ không phải là giai đoạn nối tiếp và phát triển JAZZ. Vậy đâu là những đặc tính của JAZZ chính thống ? JAZZ chính thống chủ yếu là một nghệ thuật trình tấu liên quan tới vấn đề phụ soạn và ứng tác ngẫu hứng. Nhà phụ soạn và nghệ sĩ diễn tấu được xem như quan trọng hơn tác giả, lúc đó giai điệu và hòa âm nguyên thủy của chính tác giả không còn được các nghệ sĩ trình tấu tôn trọng triệt để mà đúng hơn nhiều lúc chỉ được họ xem như là nguồn cảm hứng cho những ứng tác và biến tấu của họ. Sau đây là một số đặc tính quan trọng của JAZZ chính thống : + Giai điệu ngọt ngào hơn, êm dịu hơn, nhiều phần hát hơn RAGTIME.
+ Giai điệu biến chuyển trên nền nhạc đệm dồn dập.
+ Sử dụng các hình thức đa tiết tấu (polyrhythmus; đúng hơn phải nói là đối tiết tấu : contrarhythmus) : các khuôn mẫu tiết tấu phức tạp chồng chất lên nhau.
+ Dùng nhiều cung thể trưởng hơn là cung thể thứ.
+ Dùng nhiều dấu nhạc bên cạnh trong hòa âm, đặc biệt là dùng bậc II và bậc VI trong hợp âm bậc I để kết câu, kết bài.
+ Thích dùng hợp âm 7 và hợp âm 9 song song mà không giải quyết.
+ Ít dùng bộ đàn dây (violon, viola, cello) và ưa sử dụng các loại nhạc khí kích phát kèn sáo như saxo, clarinette, trompette, trombone và guitare.
(còn nữa)
|
|