|
NHỮNG NGƯỜI ẢO KIẾN Ở OSSEN
Khi cha Cros điều tra lịch sử một cách hết sức tỉ mỉ vào năm 1878, thì ngài cũng có tìm hiểu những người đã bị ảo kiến ở Ossen ngày trước. 20 năm qua, họ đã trưởng thành một cách tự nhiên. Những kinh nghiệm của năm 1858 còn lại gì trong trí họ?
Không có gì hoặc hầu như không có gì. Họ đã trở nên những Kitô hữu rất tốt. Cả hai anh em Laurent Lacaze và Jean-Pierre Pomiès đều có tên trong số những người giúp lễ chính, khi có rước kiệu Thánh Thể trong họ đạo. Cha Cros có hỏi họ. Laurent Lacaze, người đầu tiên, nói với ngài rằng anh ta hầu như không còn nhớ gì về những việc làm và cử chỉ của mình hồi năm 1858 nữa. Anh ta nói:
"Con nhớ rằng con đi tới Hang Đá với những đứa trẻ khác, và con thấy một loại bóng đen, nhưng con không còn ý niệm là cái đó có chân tay hay không, là đàn ông hay đàn bà. Con không nhớ con đã làm gì trên đường từ Lộ Đức tới Ossen".
Đối với đa số những người còn nhớ rõ hơn một chút, thì "loại bóng đen" mà Laurent đã trông thấy hồi đó chỉ có thể là ma quỷ!
Đến lượt Jean-Pierre Pomiès, khi được cha Cros hỏi tới, anh tuyên bố:
"Con thường tới Hang Đá vì bị hấp dẫn bởi tiếng đồn về những chuyện phi thường tại đó. Trong thời gian lui tới đó, con được thị kiến 2 lần: lần thứ nhất con thấy trong hốc đá một bóng sáng lòa, ở giữa lại có một bóng đen khá dày. Bóng sáng đó không đỏ cũng không trắng, cao khoảng 1 mét. Con không thấy rõ hình dáng của nó. Thấy như vậy khoảng 15 phút. Lần thứ hai con cũng thấy như vậy, nhưng con rất kinh ngạc về những chuyện xảy ra cho cô bé cũng được thị kiến. Con quì gối giữa cô ấy và một cậu bé. Cả ba cùng thấy rõ cái bóng sáng đó. Bỗng nhiên cô bé đưa tay tới trước về phía bóng sáng đó, thì cây đèn cầy mà cô ta cầm trên tay đột nhiên biến mất, mà không biết là nó biến đi đâu. Chúng con rất là ngạc nhiên về điều ấy".
Như vậy là Jean-Pierre Pomiès cũng chỉ thấy một "bóng đen khá dày" với một bóng sáng không đỏ không trắng nhưng rất mạnh.
Người ta còn nhớ chính anh ta đã nhảy vèo một cái qua cửa sổ hẹp, nhảy ra rồi lại nhảy vào, với một sự khéo léo siêu nhân. Nhưng vào năm 1878, người ta có thể viết về anh ta và người đồng sự với anh ta là Laurent Lacaze như sau:
"Họ sống rất ngay thẳng và đạo hạnh. Ma quỷ gian trá đã lợi dụng sự ngây thơ của họ, nhưng cả hai không ai chịu làm tay sai cho Satan cả!".
Đó là chứng từ của cha Cros, sau khi đã thấy và đã nghe họ nói.
NHỮNG NGƯỜI ẢO KIẾN Ở LỘ ĐỨC
Cái khả năng quên đi nhanh chóng đó cũng được nhận thấy nơi vô số người đã bị ảo kiến tại Lộ Đức ngày trước.
Cha Cros không quên phỏng vấn họ. Ngài nhận thấy phần đông chỉ nhớ được một cách rất mơ hồ về những ảo kiến mà họ thấy trong các năm 1858-1859. Sau những vụ hiện ra đó ít lâu, cha phó ở Lộ Đức là Serrès, khi tiếp xúc thường xuyên với các trẻ em học giáo lý đã nhận xét rằng: phần lớn các trẻ em ấy lúc đó đã tới tuổi rước lễ lần đầu, chỉ còn nhớ một cách mơ hồ và lẫn lộn những gì đã hiện ra với chúng ở Hang Đá hay ở những chỗ khác. (Ở Lộ Đức cũng như ở nhiều địa phận khác tại Pháp, trẻ em rước lễ lần đầu khoảng 12 - 14 tuổi).
Nhưng cha Cros đã hỏi một vài người lớn bị ảo kiến, lớn hơn chúng 20 tuổi. Đây là câu trả lời của Alexandre-Francois L., một người ở trong số đó:"Tôi không thích đi chơi vớ vẩn, và tôi giữ cái tính đó mãi. Vì thế, nếu các bạn bè không lôi kéo tôi, thì tôi đã không đến Hang Đá... Vì thế tôi cùng với họ leo lên cái hốc đá phía trên và tôi quì gối xuống cầu nguyện.
Lúc đó tôi thấy một thị kiến trắng như tờ giấy này: Đó là một thứ hình người, nhưng tôi không thấy rõ mặt mũi tay chân. Ngay khi những đứa trẻ nói lên, thì tôi không thấy nữa. Tôi bảo những người khác im lặng và thị kiến lại trở lại. Tôi thấy nó trở lại ít nhất 5 lần. Ai muốn tin thì tin, nhưng tôi đã thấy và thật là đẹp mắt".
Một người khác được cha Cros gọi là "người nổi tiếng nhất trong số những người bị ảo kiến ngày xưa", nay đã trở thành cha của bốn đứa con, tới lượt anh ta nói:"Tôi đã chứng kiến một hay hai lần việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette, và tôi rất cảm xúc như bao nhiêu người khác. Nhưng tôi không nghĩ về nó nhiều, thì một ngày kia, khi đi dạo ở cạnh khu rừng với một đứa trẻ cùng tuổi, chúng tôi cùng đi xuống Hang Đá.
Khi ở đó cầu nguyện, tôi thấy trước mắt có một cái gì đó hình khuôn mặt người. Tôi bật cười rồi bật khóc, và người ta cho rằng tôi thấy thị kiến. Tôi nói với bạn tôi những gì tôi thấy.
Các phụ nữ tới tìm tôi tại nhà và dẫn tôi tới Ribère. Một vài lần tôi không thấy gì cả. Những lần khác, tôi cũng thấy như trước, và tôi kêu lên: Hãy quì gối xuống! Hãy hôn đất!, vì tôi sợ. Tôi trông thấy cái hiện ra đó đi từ cây này sang cây khác trong đồng cỏ.
Tôi yêu cầu người ta đưa tràng hạt của họ cho tôi, và tôi nhúng những tràng hạt đó xuống suối Gave, vì ý tưởng đó đến với tôi như vậy.
Một hôm, chỉ có một mình tôi tại Hang Đá, và tôi trông thấy thị kiến. Vị linh mục, người đã cho trồng những cây thánh giá trên đỉnh đồi Ger, tới đó và bảo tôi: 'Hãy ra khỏi đó đi! Cái con trông thấy thì nghịch hẳn với sự hiện ra thực sự'. Và tôi bỏ đi.
Những đứa trẻ khác nhăn mặt lại như tôi, và chúng la hét. Nhưng tôi không biết chúng la hét gì. Tôi sợ. Tôi chỉ tới đó một mình vào ban ngày. Ban đêm tôi không dám đi nếu các phụ nữ không đến tìm tôi.
Họ tin rằng tôi trông thấy Đức Trinh Nữ. Thỉnh thoảng vào lúc 10 giờ, 10 giờ rưỡi, chúng tôi trở về. Các phụ nữ hỏi tôi: 'Mày thấy gì vậy?'. Tôi trả lời: 'Đức Trinh Nữ!'. Thực ra tôi thấy một khuôn mặt đàn ông. Khuôn mặt này thay đổi thường xuyên. Thỉnh thoảng nó có râu. Một lần tôi trông thấy nhân vật đó mặc đồ trắng, tôi không nhớ nhận xét tay chân của ông ta.
Tất cả những cái đó hiện giờ lẫn lộn với nhau. Tôi không thể nói nó là cái gì..."
Đó là tất cả những gì cha Cros đã sưu tập được một cách chính xác về tất cả các thị kiến cách đây 20 năm. Nói chung, tất cả những người ảo kiến cũ đều rất quả quyết về hai điểm này: Một, là không ai thúc đẩy hay xúi giục họ nguỵ tạo ra những thị kiến cả, nó đến với họ là do họ, hoặc do ma quỷ - chúng tôi nói dựa theo rất nhiều người khác nữa; hai, là cảnh sát, ông cò, hiến binh, tuần phiên luôn luôn chống lại việc làm không tốt ấy của họ.
KẾT LUẬN
Chúng tôi không biết kết luận gì khác với kết luận của cha Cros, là người đã nghiên cứu kĩ lưỡng toàn bộ hồ sơ này, mà chúng tôi đã trích dẫn phần nào trong đó. Ngài tin chắc rằng Satan thực sự là tâm điểm tất cả những biểu hiện ấy, vì tại đó có một sự hội tụ, một thứ tự, một mưu chước, không thể là một đặc tính của một người nào trong số những nhân vật đã từng đóng một vai trò trong đó. Giống như trong một bài hợp xướng cổ, chúng ta nghe thấy tiếng hát, còn người điều khiển ta không trông thấy thì không ai khác hơn là ma quỷ. Người điều khiển buổi hoà nhạc là Satan. Đó là mấu chốt để giải thích một cách hợp lý những chuyện quái đản mà chúng ta đã thấy. Chỉ vậy thôi, Satan không thể làm gì khác hơn là để móng vuốt của nó vào những bố trí khéo léo nhất của nó. Nhờ ơn Chúa, nên luôn luôn có sự khác biệt giữa những người bị ảo kiến - dù là phụ nữ, thiếu nữ, cậu bé hay cô bé - được biểu hiện ra thời đó, với Bernadette rất an bình và trầm tĩnh, khác biệt đến nỗi không ai có thể lầm lẫn được, và sự phân biệt thiện ác, chân giả được thực hiện chính xác.
Chúng ta hãy đưa ra thẩm định cuối cùng của cha Cros mà chúng tôi cũng lấy làm thẩm định cho mình: "Chúng tôi đã từng chứng minh cho thấy làm sao chứng cớ của linh thánh lại chính là kết quả của sự bất lực nơi những kẻ phản kháng mạnh mẽ nhất: những kẻ phản kháng dù là chính quyền hay ngoài chính quyền, không ai có thể chặn đứng biến cố đang xảy ra, hay làm chậm bước tiến của nó. Dưới mắt họ, biến cố chỉ là Bernadette, và Bernadette không là gì cả. Đám mây những người ảo kiến tan rã, lập tức người ta không hề nói tới nó nữa. Ngôi sao của người thị kiến chân thực đã chiếu sáng thâu qua đám mây ấy, và chính đám mây ấy lại được dùng để thẩm định sự thuần khiết của ánh sáng đó một cách chính xác hơn.
Vì thế sự phản kháng của hoả ngục cũng như sự phản kháng của con người đều bị thất bại. Có thời Satan được những người đạo hạnh trợ tá cho nó, vì họ đã bị yêu thuật của nó lừa phỉnh: không có gì đáng sợ hơn có thể tưởng tượng được. Tuy nhiên, chính đám mây này dù đen tới đâu, thì công trình của Thiên Chúa vẫn xuyên thấu. Sự bảo hộ của ma quỷ dù có năng lực tới đâu cũng trở thành vô ích đối với những người ảo kiến, và khi những khuôn mặt nhăn nhó đã biến mất, thì gương mặt của Bernadette vẫn chiếu sáng như trước, nhưng chiếu sáng bằng sự chân thành, bằng sự bình an đã trở thành duyên dáng hơn".
Ngày kỉ niệm 100 năm vừa chấm dứt ở Lộ Đức vào đầu năm 1959, là một bằng chứng của sự vinh quang từ nay sẽ bao quanh tên của cô bé Bernadette Soubirous khiêm nhường, là người đã thấy Đức Trinh Nữ năm 1859! Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng: Bernadette, một cô nông dân thấp hèn, cũng như cha sở họ Ars là con của nông dân, đã kết thúc cuộc đời tại tu viện Nevers. Vào giây phút cuối đời, cô đã phải chiến đấu với ma quỷ, cũng như cha sở họ Ars đã phải chiến đấu suốt cuộc đời ngài.
Trong giờ hấp hối, cô đã tỏ ra trong giây lát một nỗi sợ hãi lớn lao, và một trong những nữ tu giúp đỡ cô đã nghe cô nói một cách rất rõ ràng: "Satan hãy xéo đi!".
Và vị thánh nhỏ này ít phút sau đó đã tìm lại được tất cả sự bình thản của mình, và đã chết trong một niềm bình an lớn lao đầy chiến thắng! |
|