Quy luật trong Thánh Nhạc
Phần này hạn chế trong hai đối tượng là nghi thức và nội dung bài hát.
1. Nghi thức:
Nếu từ bản chất không có một thứ nhạc phụng vụ nào, thì trái lại có một thứ nhạc hỗ trợ cho việc cử hành các mầu nhiệm Ki-tô giáo. Nhạc này phải được lồng vào trong các buổi cử hành nghi lễ một cách hài hòa, đến nỗi nếu không có như vậy thì nhạc không còn phải là nhạc nữa. Chính vì vậy mà trong sắc lệnh Motu proprio của thánh Pio X năm 1905, thánh nhạc được coi là bộ môn phục vụ cho phụng vụ hay nói đúng hơn là nữ tỳ của phụng vụ, và trong thông điệp Mediator Dei, thánh nhạc được xác định là thành phần thiết yếu và hoàn chỉnh của phụng vụ. Chính nhạc đã là nghi thức và là dấu hiệu diễn tả cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và những người tham dự.
Đây là một vài trường hợp chứng tỏ nhạc không hội nhập vào việc cử hành :
Khi người ta có cảm giác là buổi cử hành bị gián đoạn hoặc trệch hướng, vì một bài hát hay một khúc nhạc. Lúc đó hoạt động phụng vụ bị rút lại và được thay thế bằng một hành động có tính nhạc thuần túy hay trình diễn hoặc giải trí mà thôi.
Khi các nghi thức diễn ra mà không phải lời ca hay bí tích đóng vai trò chính mà là những hình thức nhạc như trong nhạc trường hay trong một thứ thánh lễ bằng nhạc.
Còn nhạc hội nhập thiết thực vào lễ nghi thì không làm gì khác ngoài hỗ trợ cho việc cử hành. Vì thế nhạc không được tách rời tác động phụng vụ mà phải đi kèm với tư cách phục vụ.
Do đó, nhạc nghi thức phải có hai đặc tính là cộng đồng và lời ca phải đóng vai trò đặc biệt. Ngoài ra, để hoàn tất chức năng, nhạc nghi thức còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố liên quan như bản chất của nhạc, nghĩa là cách thức khác nhau đi từ đọc theo cung giọng đến chỗ hát theo nghĩa thông thường. Sở dĩ buổi cử hành cần đến nhiều cách diễn tả lời ca như vậy là vì cần vận dụng những chức năng khác nhau như công bố, suy niệm, ngâm vịnh, tung hô, ngợi khen, đối thoại, trả lời. v.v... Như thế tùy vào bản văn, nhất là tùy vào mối dây liên lạc giữa người phát ngôn và người nghe, khi thì cần truyền thông một sứ điệp hơn, khi thì cần nghe rõ các lời đọc hơn, khi thì cần ca ngợi hơn. Mỗi thể loại ngôn ngữ ấy cần có một sự tương xứng khác nhau giữa bản văn và yếu tố nhạc. Bởi vậy, nhạc nghi thức phải lệ thuộc vào bản chất của nhạc là vừa đa dạng, vừa pha lẫn các yếu tố với nhau, nếu cần. Tuy nhiên có thể quy vào ba loại chính yếu để đáp ứng ba tình trạng nghi thức tiêu biểu là công bố, tung hô và ca tụng.
Tiếp đến là thể nhạc. “Huấn thị thứ ba” để áp dụng đúng Hiến chế Phụng vụ nói : “Mặc dù Hội thánh không loại một thứ nhạc nào ra khỏi hoạt động phụng vụ, nhưng không phải bất cứ âm nhạc nào hay nhạc cụ nào cũng đều có khả năng nuôi dưỡng lời cầu nguyện và trình bày mầu nhiệm Đức Ki-tô như nhau, vì thánh nhạc phải hướng về việc thờ phượng, nên phải mặc hình thức thánh thiện và tuyệt hảo, phù hợp với tinh thần của chính phụng vụ và bản chất của mỗi phần cũng như không ngăn trở giáo dân tham dự tích cực, đồng thời lại phải qui hướng sự chú ý và tâm tình vào các việc thánh đang cử hành. Như vậy phải đề cập đến một số thể nhạc và nhạc khí được chuẩn nhận. Đó là hình thể bình ca và đa âm, thể thánh ca bình dân tôn giáo, nhạc tiết điệu.
Cuối cùng là hình thái, cơ cấu và cách thực thi nghĩa là tại sao hát bài đó ? Tại sao hát bài đó vào lúc đó ? Tại sao hát bài đó vào lúc đó với cung cách đó. Như vậy cũng có nghĩa là phải xét đến ý nghĩa, vai trò và tác động của bài hát.
2. Nội dung:
Nội dung của một bài hát cần hội tụ những đặc điểm sau đây :
2.1) Về ý nghĩa, bài hát cần phải diễn tả lời cầu nguyện đầy đủ hơn và chú trọng đặc biệt đến khả năng cầu nguyện của bài hát. Bài hát nào không giúp người ta cầu nguyện mà chỉ để nghe cho vui tai với những lời lẻ sáo mòn : trăng sao mưa gió hay tình cảm ướt át thì không nên đưa vào nhà thờ. Về điểm này, các nhạc sĩ nên dùng lời Kinh thánh và Phụng vụ hay ít ra những tâm tình phát xuất từ các bản văn đó mà viết nhạc.
2.2) Về phía cộng đoàn, bài hát phải qui tụ cả cộng đoàn lẫn ca đoàn, nghĩa là kết hợp bên trong cũng như bên ngoài : bên trong thì thu hút sự chú ý của cộng đoàn vào ý nghĩa của lời ca ; bên ngoài thì kết hợp thành một khối chặt chẽ, vì ca đoàn không phải là một nhóm độc lập nhưng là thành phần của cộng đoàn.
2.3) Biểu lộ đặc tính ngày lễ
Bài hát phải biểu lộ đặc tính của ngày lễ. Tuy nhiên, đặc tính đó phải được biểu lộ ở những chỗ thích hợp, tùy theo từng hình thể và cách thức hát, tung hô hay công bố.
3. Chuẩn nhận:Do ảnh hưởng của thời cuộc, mấy chục năm vừa qua tại giáo phận Saigon, các bài hát trong nhà thờ thường là do tự biên, tự diễn, không qua một khâu kiểm duyệt nào hết, trong khi kỷ luật hiện hành của Hội thánh về vấn đề này là các bài hát đạo phải được kiểm duyệt để tránh sai sót về thần học và phụng vụ, đồng thời được bảo đảm tương đối về nghệ thuật. Có khiếu về âm nhạc, chơi được vài nhạc cụ. sáng tác được ít bài hát hoặc có học ở nhạc viện thành phố đi nữa, bấy nhiêu vẫn chưa đủ để làm nhạc phụng vụ cho có bảo đảm. bởi vì nhạc phụng vụ có những đòi hỏi khác mà một người không học hay không biết về Thánh nhạc, Phụng vụ, Kinh thánh khó có thể chu toàn được. Vì vậy bài hát cần phải được kiểm duyệt. Công việc này thuộc thẩm quyền Hội đồng Giám mục và các vị thường quyền.
Kết luận
Trên đây chỉ là vài điều sơ lược tối thiểu về thánh nhạc và kỷ luật liên hệ, để những ai có trách nhiệm trong vấn đề này lưu ý, như nhạc sĩ sáng tác, ca viên, ca trưởng, cha sở, cha phó, thày xứ. Nhờ sự lưu ý này, may ra việc hát xướng ở nhà thờ sẽ được cải thiện cho xứng với việc thờ phượng. Tôi nói là may ra vì ít có hy vọng những người trẻ hiện nay chịu theo giáo huấn của Hội thánh về âm nhạc trong phụng vụ, một phần vì thiên kiến một phần vì không biết. Mà vô tri thì bất mộ. Đó là lẽ đương nhiên !