THÁNH NHẠC HỖ TRỢ CHO PHỤNG VỤ
VÀ PHỤC VỤ DÂN TIHÊN CHÚA
Thủ bút mừng kỷ niệm bách chu niên Tự sắc Tra le sollecitudini
(Motu proprio Tra le sollecitudini ) của Thánh Gíáo hoàng Pi-ô X
Ngày 22-11-2003, nhân dịp kỷ niệm bách chu niên Tự sắc Tra le sollecitudini, một tự sắc bàn về cuộc canh tân âm nhạc trong Phụng vu của thánh Giáo hoàng Pi-ô X ï, Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã công bố một bản thủ bút (thư viết tay). Văn kiện này ghi ngày lễ thánh nữ Xê-xi-li-a, bổn mạng các nhạc sĩ. Đức Gio-an Phao-lô II đã nhấn mạnh đến tính thời sự trong Tự sắc của vị tiền nhiệm. Chúng tôi xin cống hiến bản dịch như sau:


1. Đ
ược thúc đẩy bởi ước muốn mãnh liệt “duy trì và phát động vẻ trang trọng của Nhà Chúa”, cách đây một trăm năm, vị tiền nhiệm của tôi, thánh Giáo hoàng Pi-ô X, đã công bố Tự sắc Tra le sollecitudini. Tự sắc này nhằm canh tân thánh nhạc trong việc thờ phượng. Với Tự sắc này, Đức Pio X muốn cống hiến cho Giáo hội những chỉ dẫn cụ thể trong lãnh vực thiết yếu của phụng vụ, qua việc trình bày những chỉ dẫn này “như Bộ luật pháp lý về thánh nhạc”. Cuộc can thiệp này cũng nằm trong chương trình triều đại giáo hoàng của ngài, được thu gọn lại trong khẩu hiệu : “Kiến tạo tất cả trong Đức Ki-tô”.
Lễ mừng bách chu niên văn kiện này đem đến cho tôi một cơ hội nhằm nhắc lại chức năng quan trọng của thánh nhạc. Thánh nhạc được thánh Pi-ô X giới thiệu không những như một phương thế có sức nâng cao tâm trí lên cùng Thiên Chúa, mà còn như một sự trợ giúp quý báu cho các tín hữu trong việctham dự tích cực vào các mầu nhiệm rất thánh và lời cầu nguyện công cộng và trọng thể của Giáo hội”.
Mối quan tâm đặc biệt người ta phải dành cho thánh nhạc, thánh Giáo hoàng nhắc lại, phát xuất từ sự kiện này là : “xét theo tính cách là thành phần hoàn chỉnh của Phụng vụ trọng thể, thánh nhạc tham dự vào mục đích chung của nó là tôn vinh Thiên Chúa, thánh hoá và xây dựng các tín hữu”. Khi giải thích và diễn tả ý nghĩa thâm sâu của một bản văn thánh gắn liền với nó, thánh nhạc có khả năng “đem lại một hiệu năng to lớn hơn cho chính bản văn, nhằm giúp các tín hữu sẵn sàng hơn để đón nhận hiệu quả của ân sủng vào lòng, vốn là những nét đặc trưng của việc cử hành các mầu nhiệm thánh”.
2. Lập trường này đã được Công đồng chung Va-ti-ca-nô II lấy lại trong chương VI của Hiến Chế Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium). Chương này nhắc lại rõ ràng chức năng của thánh nhạc trong Giáo hội : “Truyền thống âm nhạc của toàn thể Giáo hội đã tạo nên một kho tàng vô giá, vượt xa các nghệ thuật khác, nhất là vì điệu nhạc thánh gắn liền với lời ca, là thành phần thiết yếu và hoàn chỉnh của phụng vụ trọng thể”. Ngoài ra Công đồng cũng nhắc lại rằng “Thánh ca, không những đã được Thánh Kinh mà cả các Giáo phụ và các Giáo hoàng đề cao. Các Giáo hoàng vào thời mới đây, theo sau thánh Pi-ô X, đã nhắc đi nhắc lại vai trò thừa tác của thánh nhạc trong phụng vụ”.
Thật vậy, tiếp tục truyền thống Kinh thánh cổ xưa mà chính Chúa và các Tông Đồ đã theo sát (xc. Mt 26, 30 ; Ep 5, 19 ; Col 3, 16), Giáo hội, trong suốt chiều dài lịch sử của mình, đã cổ võ và tạo điều kiện cho việc hát thánh ca trong những buổi cử hành phụng vụ. Giáo hội đã cung cấp những bài hát mẫu tuyệt vời lấy lời ca trong các bản văn thánh, tùy theo ócï sáng tạo của từng nền văn hoá. Những bài hát này được dùïng trong các nghi lễ bên Tây phương cũng như Đông phương.
Rồi mối quan tâm của các vị tiền nhiệm của tôi dành cho địa hạt tế nhị này vẫn không thay đổi : các ngài đã nhắc lại những nguyên tắc căn bản vốn phải làm cho việc sáng tác thánh nhạc nên sinh động. đặc biệt nếu là nhạc dùng trong Phụng Vụ. Ngoài thánh giáo hoàng Pi-ô X, chúng ta phải nhắc đến, trong số nhiều vị khác, Đức Giáo hoàng Biển Đức XIV với Thông Điệp Annus qui (19-2-1749),Đức Giáo hoàng Pi-ô XII với những Thông Điệp Mediator Dei (20-11-1947) và Musicae sacrae disciplina (25-12-1955), và cuối cùng là Đức Giáo hoàng Phao-lô VI với nhiều lời tuyên bố có sức soi sáng.
Các nghị phụ của Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã không quên tái khẳng định những nguyên tắc này, nhằm áp dụng vào những điều kiện mới mẻ của thời đại. Các ngài đã làm như thế trong một chương đặc biệt, tức chương VI trong Hiến Chế Sacrosanctum Concilium. Sau đó, Đức Phao-lô VI lo cụ thể hóa những nguyên tắc này bằng những qui tắc thiết thực, đặc biệt trong Huấn Thị Musicam sacram, do Thánh Bộ các Nghi Lễ ban hành, với sự phê chuẩn của ngài, ngày 5-3-1967. Cần phải luôn dựa vào những nguyên tắc này, theo khơûi hứng của Công Đồng, để cổ võ một sự phát triển tương ứng với tầm mức của truyền thống phụng vụ âm nhạc của Giáo hội trong địa hạt nói đây, cho phù hợp với những đòi hỏi của công cuộc cải cách phụng vụ Bản văn Hiến Chế Phụng Vụ Thánh có nói các nghị phụ xác quyết rằng Giáo hội “chuẩn nhận và cho dùng trong phụng vụ tất cả mọi hình thức nghệ thuật đích thực, nếu những hình thức ấy có đủ những tiêu chuẩn áp dụng xứng hợp” trong các số 50 và 53 của Huấn Thị Musicam sacram mà tôi vừa nhắc đến.

LẤY
SỰ THÁNH THIỆN LÀM ĐIỂM QUY CHIẾU

3. Trong nhiều dịp khác nhau, chính tôi đã nhắc lại vai trò cao quí và tầm quan trọng lớn lao của âm nhạc cũng như thánh ca, nhằm giúp cho việc tham dự những buổi cử hành phụng vụ được tích cực và sâu rộng hơn, đồng thời tôi cũng nhấn mạnh đến việc cần thiết phải “thanh lọc phụng tự cho khỏi những kiểu cách tầm thường, những biểu hiện cẩu thả, những bản nhạc vô vị, những bản văn nhạt nhẽo và ít hài hoà với sự cao trọng của lễ nghi được cử hành”, hầu bảo đảm cho sự trang trọng và vẻ đẹp của âm nhạc trong phụng vụ.
Theo chiều hướng này, nhờ huấn quyền của thánh giáo hoàng Pi-ô X cùng các vị tiền nhiệm khác của tôi soi sáng, và dựa vào những lời tuyên bố của Công Đồng Va-ti-ca-nô II, một lần nữa, tôi muốn đưa ra một số những nguyên tắc căn bản cho lãnh vực quan trọng này trong đời sống của Giáo hội, nhằm làm thế nào cho nền âm nhạc phụng vụ luôn luôn đáp ứng hơn nữa vai trò chuyên biệt của nó.
4. Tiếp theo những giáo huấn của thánh giáo hoàng Pi-ô X và của Công Đồng Va-ti-ca-nô II, trước hết cần phải nhấn mạnh rằng nền âm nhạc được dùng trong những nghi lễ thánh, phải lấy sự thánh thiện làm điểm quy chiếu : “Thánh nhạc càng liên kết chặt chẽ với hoạt động phụng vụ bao nhiêu thì càng thánh hơn bấy nhiêu”. Và rõ ràng chính vì lý do này, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Phao-lô VI, đã xác định một cách đầy khôn ngoan, khi diễn giải Sắc lệnh của Công Đồng Tren-tô : “tất cả những gì ơû ngoài đền thờ đều không thích hợp để vượt qua ngưỡng đền thờ”. Và ngài đã xác định rõ rằng “nếu chúng ta không đồng thời có ý thức về sự cầu nguyện, sự trang nghiêm, sự trang trọng và vẻ đẹp, thì âm nhạc, khí nhạc và thanh nhạc sẽ tự cầm chân không thể bước vào lãnh vực của sự thánh thiêng và tôn giáo được”. Mặt khác, chính loại “thánh nhạc” ngày nay đã bị “nới rộng ý nghĩa đến nỗi phải bao gồm những bản nhạc không thể được đưa vào cho sử dụng trong buổi cử hành mà không vi phạm tinh thần và những qui tắc mực của chính Phụng Vụ.
Cuộc cải cách do thánh giáo hoàng Pi-ô X thực hiện đặc biệt nhằm thanh lọc nhạc nhà thờ cho khỏi lây nhiễm âm nhạc thế tục và kịch trường. Loại âm nhạc này tại nhiều nước đã làm vẩn đục danh mục các bài ca và cung cách hát xướng phụng vụ. Vào thời đại chúng ta cũng thế, phải chăm chú cứu xét, như tôi đã nêu bật trong Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia, là mọi diễn đạt của các nền nghệ thuật tượng hình và âm nhạc không đủ khả năng “diễn tả cách thích đáng Mầu nhiệm đã được Giáo hội đón nhận với lòng tin đầy tràn”. Do đó, tất cả mọi hình thức âm nhạc không thể được coi là thích hợp cho các buổi cử hành phụng vụ.
5. Một nguyên tắc khác đã được thánh giáo hoàng Pi-ô X đưa ra trong Tự sắc Tra le sollecitudini kết hợp mật thiết với nguyên tắc trước là vẻ đẹp của hình thể. Không thể có âm nhạc dành cho việc cử hành những nghi lễ thánh mà trước hết đó không phải là “một nghệ thuật đích thực”, có khả năng đạt được sự hữu hiệu “mà Giáo hội muốn có, khi đón nhận nghệ thuật các âm thanh vào trong phụng vụ của mình”.
Tuy nhiên, đặc tính này không tự đủ cho chính mình. Quả thật, âm nhạc phụng vụ phải đáp ứng những đòi hỏi cốt yếu và chuyên biệt của phụng vụ ; nó phải dính liềnõ với những bản văn mà âm nhạc muốn trình bày, phải hoà hợp với mùa và thời khắc phụng vụ mà âm nhạc được dành cho, lại tương ứng với những cử chỉ mà nghi thức đề ra. Thực vậy, những thời khắc phụng vụ khác nhau đòi hỏi một hình thể âm nhạc riêng, có khả năng làm xuất hiện lần lượt bản chất riêng của từng nghi thức rõ rệt, khi thì công bố những kỳ công của Thiên Chúa, khi thì biểu lộ những tâm tình ngợi khen, cầu khẩn hay cả buồn sầu nữa, vì kinh nghiệm những nỗi khổ đau của con người, nhưng nhờ đức tin, vẫn một lòng trông cậy.



(còn nữa)