|
TIẾNG GỌI TÌNH YÊU THẦM LẶNG
(tiếp theo...)
CHƯƠNG 2 TU LUẬT
“Các khoản luật thánh này chứa đựng trong hình thức canh tân và thích hợp, luật đời sống các Linh Phụ chúng ta; đối với luật này chúng ta hãy chăm chú lắng nghe và hãy suy niệm liên lỉ: chúng ta đừng rời bỏ luật và luật sẽ giữ gìn chúng ta, chúng ta hãy yêu mến luật và nó sẽ bảo vệ chúng ta. Vì nó vừa là hình thức, vừa là lễ vật thánh thiện mà Thiên Chúa đã tiền định cho mỗi người chúng ta” (Thánh Luật 4.53.1)[1].
Luật Thánh vạch ra một con đường, con đường ấy sẽ dẫn chúng ta tới Thiên Chúa. Chúng ta hãy học hỏi đào sâu luật và đem ra thực hành trong suốt năm tập nhất, bởi đó vừa là truyền thống đan tu Chartreuse nói riêng, vừa là truyền thống đan tu nói chung, để giúp chúng ta, những cuộc họp này sẽ triển khai nhiều chủ đề cần thiết nhất của Thánh Luật và phê bình một vài vấn đề của quyền lợi thực dụng.
Chúng ta không nghiên cứu Thánh Luật như các nhà khảo cổ học. Hiểu biết lịch sử Dòng chúng ta là điều hết sức quan trọng bởi nó giúp chúng ta thấm nhuần tinh thần Dòng nhưng chúng ta không chỉ dừng lại ở đó. Điều cần thiết là biết làm cho tinh thần ấy sống động nơi chúng ta ngay lúc này và tại đây. Bản chất của một quy luật đời tu hệ tại sự thật tận căn và hoa trái của nó. Trong sự phản tỉnh chính mình để lắng nghe Thần Khí Thiên Chúa, Đấng đã cuốn hút trong sự đáp trả của chúng ta, để kết hợp mật thiết với Người trong cô tịch, hầu chúng ta đọc ra được nội dung này. Nó sẽ giúp chúng ta biết tạo khoảng trống hấp dẫn đầy bí ẩn trong lòng chúng ta, và dạy chúng ta biết đáp trả xứng hợp trong thực tại của đời sống.
Chúng ta không nên suy đoán về sự hiểu biết này, trái lại chúng ta cần tự vấn mình về sự thật tận căn trong từng khía cạnh của đời sống chúng ta: Phải chăng chúng ta đang sống luật ấy trong lòng chúng ta một cách ý thức và tự do, và không bị cưỡng bức bên ngoài? Và hoa trái của nó: Phải chăng nó giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa và tha nhân? Chúng ta có thể kiện toàn chúng trong thực trạng của mỗi ngày sống không? Và kiện toàn như thế nào?
(Tu Luật 4,35,4).
Sau mỗi chương, chúng ta sẽ giải thích với nhau về những phản ứng của chúng ta đối với việc giữ luật trong vấn nạn: Luật có tương quan như thế nào với chúng ta và nó có thể giúp chúng ta sống đời sống ra sao?
MỘT TRUYỀN THỐNG SINH ĐỘNG
Đó không phải là nội dung của Thánh Luật khiến chúng ta phải quan tâm nhiều như kinh nghiệm tu trì từ đó phát sinh ra. Chúng ta đang uống trong một truyền thống, như Tin Mừng, là một thực tại sống động trước khi được đào đạt vào một bản văn. Chỉ có 43 năm (1084-1127), sau khi Bruno lập Chartreuse, Guigo, vị bề trên thứ năm đã để lại bản văn thói lệ hướng dẫn đời sống; và đây là sự nhấn mạnh các nền tảng khác nhưng cùng hình thức sống, và không phải vì đã có một nhu cầu để hệ thống hóa luật. Thói lệ của Guigo không hề đưa ra một học thuyết đời sống đan tu Chartreuse; mà đơn thuần ghi lại con đường sống cho các đan sĩ tiên khởi thực hành sự khôn ngoan trong đời sống thiêng liêng và huyền nhiệm. Trước khi yên nghỉ, Guigo đã để lại cho chúng ta một truyền thống đan tu.
Chúng ta là những người thừa hưởng một truyền thống sống động, truyền thống được chuyển giao từ thế hệ này tới thế hệ khác qua nhiều thế kỷ, tượng trưng cho thực tại của đời sống mà các đan sĩ đã sống chính tại nơi đây, thế hệ nối tiếp thế hệ. Họ được thông truyền bởi cùng một đức tin, họ tìm kiếm cùng một Thiên Chúa, họ cùng nhau cầu nguyện, họ hát cùng những giai điệu, và chắc chắn họ chịu đựng cùng những thử thách. Mối liên hệ sau cùng chính là thế hệ đi trước mà chúng ta là những người kế tục. Chúng ta nhìn thấy nơi họ sự quang tỏa truyền thống các Linh Phụ đi trước.
Sự tiếp cận này là rất quan trọng. Sự chuyển giao một truyền thống không đơn thuần bằng sự truyền lại cho hậu thế các đạo lý và những thực hành. Hẳn thật, nó được thực hiện ở nơi đầu tiên bằng một hình thức “cộng sinh”. Đó là một loại đời sống được lưu truyền lại và Dòng sữa nuôi dưỡng các thành phần trẻ trong đời sống chung dựa trên bản chất của nó sẽ là môi trường cụ thể của cộng đoàn sống động này. Có nhiều điều được thông truyền bằng nhiều ý nghĩa khác nhau hơn là lời nói. Thực tại thì vĩ đại hơn nhiều so với điều được mô tả và những gì chúng ta có thể học được bằng cách đọc các văn bản. Do đó, chúng ta cần đề phòng việc coi đọc sách như một cách tiếp cận đời sống đan tu Chartreuse. Bởi lẽ đó là một đời sống để sống. Nó gần như mối liên hệ giữa Kinh Thánh với truyền thống sống động của Giáo Hội, đảm bảo cho sự giải thích đúng đắn của nó.
Hiển nhiên là vì trong một Giáo Hội rộng lớn, thì mỗi một thời đại ít nhiều có trung thành với truyền thống và ít nhiều có sự chọn lọc. Khía cạnh này hay khía cạnh khác được nhấn mạnh nhiều hơn; một luật nào đó ít hay nhiều được thực hành, theo hoàn cảnh thời đại và hoạt động của ân sủng. Trách nhiệm của mỗi thế hệ là thấm nhuần truyền thống đồng thời làm cho nó có chiều sâu hơn.
Đây cũng là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta hãy ý thức sâu xa rằng: chúng ta được cao hơn là nhờ đứng trên vai các vị Linh Phụ[1]. Chúng ta là những người khai tâm. Con đường các Linh Phụ chúng ta để lại đã được trải nghiệm trong nhiều thế kỷ. Chúng ta cảm nhận được sức sống của các ngài. Chúng ta hãy đi vào trường học của các ngài với lòng khiêm tốn và tuân phục.
Chúng ta đừng mong thỏa mãn sự thích nghi bên ngoài. Chúng ta đừng bao giờ thắc mắc rằng: chúng ta có phải là những con người cầu nguyện như các ngài không? Chúng ta có khó nghèo như các ngài không? Sự cô tịch của chúng ta có sinh hoa trái chăng?
NGUỒN GỐC CỦA TU LUẬT
Luật Dòng Chartreuse không tĩnh. Phương châm “numguam reformata” “không bao giờ sửa đổi” chúng ta nhấn mạnh như vậy không có ý muốn nói một luật được viết ra không bao giờ thay đổi từ khi mới hình thành. Đúng hơn, điều chúng ta thấy là một cơ cấu sống động luôn thích nghi với sự thay đổi của hoàn cảnh nội tại và ngoại tại. Thói lệ Guigo đã được bổ sung sáu lần trong 150 năm đầu, nhờ vậy mới có một tài liệu biên soạn vào những năm 1271, được đặt tên là “Antigua Statuta”[1] (Luật Xưa). Những sự bổ sung này chứa đựng nhiều quyết định được hướng dẫn bởi Tổng Hội của Dòng thuộc về sự quan tâm chung. Phần lớn, đã có nhiều hoàn cảnh cụ thể được thích nghi với những nhu cầu của đời sống và sự phát triển của Dòng. Theo định kì và với nhu cầu, những tài liệu được soạn ra trong tầm nhìn xa hơn. Vào năm 1368 cuốn “Luật Mới” (Nova Statula), năm 1509 “Tertia Compilatio” (Tài Liệu Biên Soạn thứ ba), năm 1582 “Nova Collection” (Sưu Tầm Mới), sau Công Đồng Trento, tất cả các tài liệu trước đây được gom lại. Năm 1924 cuốn “Statula” (Tu Luật) được xuất bản. Tu Luật được xét duyệt lại dựa theo bộ Giáo Luật mới ban hành năm 1917. Bốn quyển đầu tiên vào năm 1971 và bốn quyển sau cùng vào năm 1975 thuộc “Status Rénoves” (Tu Luật Canh Tân) quang toả ánh sáng của Công Đồng Vatican II.
VATICAN II
Sau Công Đồng, Dòng Chartreuse cùng với tất cả các Dòng Tu đảm nhận công việc canh tân Tu Luật, như được chỉ thị bởi các Sắc Lệnh của Công Đồng. Những gì không thích hợp đều bị lược bỏ. Vd: những áp lực mang tính pháp lý trong Dòng, phong phú hóa phụng tự, qua nhiều thế kỷ Tu Luật nguyên thủy được tài bồi thêm. Sự thích nghi phụng vụ chắc chắn được thực hiện và được phong phú hóa trong nguồn mạch Kinh Thánh và các giáo phụ.
Văn phong của Tu Luật cũng một cách nào đó được đổi cho thích hợp. Nhìn chung, chúng sẵn sàng giới hạn mình vào cấp độ luật ngoại tại. Tu luật Canh Tân - dù rất dè dặt – vẫn mang tới ánh sáng Kinh Thánh và nhiều nền tảng thiêng liêng cho đời sống chúng ta, trên tất cả là sự phóng chiếu bản văn bằng những trích dẫn từ truyền thống Chatreuse (Bruno, guigo…) và từ truyền thống đan tu, đặc biệt là từ truyền thống đan tu Đông Phương, nhờ sự du nhập này chúng ta mới có thể tiếp cận được với những nguồn mạch chính yếu của đời sống Chartreuse.
Cần có gì đó mới hoặc xem xét lại những định hướng chung để có thể hội nhập. Vd: Quyền được áp dụng một cách chủ quan và sự thực hành đức tuân phục, tất cả đều chú trọng đến mối quan hệ giữa con người với con người; tình trạng pháp lý của Tu Luật đan tu sẽ được biết tới cách viên mãn nơi anh em, và tiến gần đến sự hiệp nhất giữa các linh mục trong tu viện với anh em; Giáo Hội luôn ý thức hơn nữa cũng thuộc chức năng của Dòng trong mầu nhiệm Thân Mình Chúa Kitô. Đồng thời Công Đồng cũng xác nhận ơn gọi chiêm niệm thuần túy của chúng ta một cách mạnh mẽ. Chúng ta cần phải đọc Tông Thư Optiman Partem mà Đức Giáo Hoàng Phaolo VI đã gửi cho các linh mục để nói về sự canh tân[1] vào năm 1971.
“Đời sống chiêm niệm là hiện thân của Giáo Hội…Chiêm niệm và cầu nguyện liên lỉ cần được xem như những chức năng căn bản khả dĩ mang lại lợi ích cho toàn cầu”.
TRUNG THÀNH SÁNG TẠO
Thói lệ của Guigô được áp dụng cho một nhóm nhỏ những người nam. Ba thế kỷ kế tiếp được chứng kiến sự sinh sôi nảy nở một Dòng lớn. Thế kỷ XVI đã có 195 nhà được lập. Và đã làm nên những thay đổi đột ngột về xã hội và tôn giáo giữa những thế kỷ XII và XX! Bệnh Dịch Hạch, cuộc ly giáo lớn, Cải Cách Tin Lành, Phục Hưng Công Giáo (chống cải cách), cuộc Cách Mạng Pháp, áp lực của Dòng và sự ly khai của các đan sĩ, sự trở về nguồn và phục hưng Dòng vào năm 1817; sau cuộc xuất hành và lưu đày lần thứ hai ở Italia, cuộc chiến tranh thế giới thứ I, năm 1940 Thế Chiến thứ II, Công Đồng Vatican II, thế giới đang khủng hoảng.
Không thể tránh khỏi nhiều thay đổi và thích nghi mang tính áp đặt. Nhưng điều lạ lùng thật sự là tính liên tục của truyền thống, sự trung thành của các thế hệ kế tiếp đối với một lý tưởng là bất biến và những yếu tố nền tảng của một con đường sống luôn giống nhau. Lý do hẳn là vì tính đơn sơ của đời sống chúng ta và một tinh thần linh động bền bỉ, còn những gì là phụ trội và chủ quan thì có thể thay đổi theo mỗi thời đại. Hơn nữa, đây là một hệ thống hoàn bị có lợi cho linh mục, các Tổng Hội Dòng và các vị tuần viếng hầu giữ những nguyên tắc đời sống nguyên thủy vốn bị biến dạng. Sự canh tân liên tục này tránh được những cuộc cải cách thoát ly định kì đã để lại dấu ấn trên lịch sử của quá nhiều Dòng tu.
Lặp đi lặp lại một cách máy móc sẽ không duy trì được sự trung thành này, trong khi cần phải có một sự trung thành sáng tạo. Đó chính là vấn nạn của một thực tại thiêng liêng: tìm kiếm Thiên Chúa trong cô tịch và trong tình huynh đệ, mỗi thế hệ cần phải khám phá cho được tinh thần của ơn gọi. Mỗi thế hệ phải dám sống sự thật của ơn gọi (đối với chúng ta, cũng như mọi người thuộc thế kỷ XX) đồng thời trở về nguồn[1] cách sâu xa và liên tục hơn, hầu tiếp cận Brunô, Guigô, Chartreuse trong dự phóng tinh truyền nguyên thủy, cũng như các thánh của Dòng qua các thời đại. Về nguồn là về với truyền thống đan tu vĩ đại, Đông cũng như Tây. Mọi sự đều bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ sâu xa với Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Đời sống chúng ta chẳng qua cũng chỉ là một sự đáp trả đối với Lời sáng tạo này. Nhờ “Tin Mừng hướng dẫn” tận căn, chúng ta mới đến được với Chúa Cha. “Nhưng chính Thần Khí ban sự sống, Ngài không cho phép chúng ta bằng lòng dừng lại ở phạm vi chữ viết, Tu Luật chỉ được giữ vững trong nguồn mạch Tin Mừng, nhờ vậy chúng ta có thể bước đi trong đường lối Chúa và học hỏi sự quảng đại của tình yêu.”
(Tu Luật 4, 35, 1).
CHỮ VIẾT VÀ TINH THẦN
Chữ viết và tinh thần là một vấn đề phổ biến; không hẳn những mẫu hình thức quy định sẽ chống lại tinh thần và đời sống – nhưng quan trọng nhất vẫn là hoa trái của hình thức này. Phương tiện có thể làm mờ và thay đổi mục đích. Nhiều phương tiện được dùng để diễn tả một sự mạo hiểm, đầy táo bạo, khả dĩ trở thành bức tường bảo vệ trước những thách đố trong đức tin và đời sống.
Chúng ta hay bị cám dỗ dừng lại ở chữ viết trong Tu Luật. Đúng là chữ viết quan trọng nhưng chỉ trong lãnh vực đánh giá rồi từ đó phát sinh tinh thần gìn giữ và phát huy luật. Chúng ta cũng hãy tránh mức cực đoan. Có một cuộc đối thoại sâu sắc giữa chữ viết và tinh thần. Chúng không hề đối lập nhau. Mỗi một chiều kích có một sự cần thiết khác nhau. Tinh thần mà không có thân xác thì có nguy cơ rơi vào ảo tưởng. Ngôi nhà thì cần có một cái khung. Đôi khi chính chữ viết với nét riêng của nó lại giúp duy trì truyền thống và cho phép cởi mở đối với tinh thần trong một thời gian thuận tiện hơn. Đây là trường hợp ở thế kỷ XIX, sau cuộc Cách Mạng Pháp, Dòng gần như bị phá hủy hoàn toàn, nên phải bắt đầu lại một cách kiên quyết trong tinh thần đạo đức.
Giải pháp lý tưởng cho sự căng thẳng giữa chữ viết và tinh thần là nội tâm hóa những giá trị được luật nhìn nhận, như vậy mới có thể ôm ấp và làm nên những nét riêng trong ý thức và chuyên biệt hầu lập nên những quy luật của đời sống thiêng liêng một cách độc đáo. Bởi thế, những khó khăn của chữ viết – tinh thần và luật – tự do có thể làm thành vòng tròn, bởi lề luật là khuôn khổ và rường cột làm nên tự do của tôi. Không ai có thể ép buộc tôi làm điều tôi muốn làm. Đây là tình huống duy nhất nói về tự do Tin Mừng, thứ tự do này không loại trừ luật – mà thánh Phaolô xác quyết: “Chúa Kitô là luật của tôi” – những luật được nội tâm hóa, được khắc vào lòng chúng ta, như các ngôn sứ đã tiên báo (Jr 31.33). Đó là tự do của con cái Thiên Chúa trong Thần Khí: “Tự do xuất phát từ tình yêu, tự do giải thoát, giúp chúng ta yêu mến” (Tu Luật 4.35-37). Trái lại, nếu không có lòng mến thì mọi sự thành vô ích. “Vì nếu không sống với Chúa Kitô và không kết hợp mật thiết với Thiên Chúa trong tâm hồn, thì sự trung thành với nghi thức và luật lệ bên ngoài sẽ chẳng ích lợi gì, và đời sống chúng ta chỉ có thể sánh với một cái xác không hồn” (Tu Luật 1.9.5).
Dĩ nhiên ngay từ đầu, chúng ta phải đón nhận một số lệnh truyền chắc chắn không phù hợp với tính tự phát nội tâm của chúng ta. Điều này sẽ tạo nên một hiệu năng sáng tạo. Với thời gian và kinh nghiệm, chúng ta học biết đi sâu vào nội tại của luật hơn, cũng là mức độ cao nhất trong tinh thần tự do lành mạnh. Tự do làm cho triển nở. Nhưng trước hết nó cần phải được huấn luyện.
Luật nâng đỡ và giải thoát chúng ta khỏi những thúc ép của sự ích kỷ, của ham muốn nhục dục, của tính kiêu ngạo nơi chúng ta. Ai được Thần Khí Thiên Chúa, được tình yêu dẫn dắt mới thực sự là con cái Thiên Chúa.
PHỤ LỤC
-1084 lập Đan Viện ở Chartreuse.
-1090 lập Đan Viện ở Calabria.
-1127 Thói Lệ của Guigô (9 nhà).
- 1140 lập Dòng: Tổng Hội lần đầu tiên với 6 sự bổ sung cho Thói Lệ: 1140, 1170, 1180, 1222, 1248.
-1271 Luật Xưa (tài liệu của 6 sự bổ sung và thói lệ của Guigô).
-1349 Dịch Hạch (900 nạn nhân).
-1378 Đại Ly Giáo ở bên Tây:
Dòng chia rẽ, có hai vị Cha chung cho tới 1409; hai sự bổ sung (Luật Mới 1368, Biên Soạn Tài Liệu thứ ba 1509).
Trước cải cách Tin Lành: có 195 nhà
-1500-1600 các cuộc chiến tranh tôn giáo (40 không còn hoạt động).
-1582 một bản Tổng Hợp Mới (sau Công Đồng Trentô). Nhiều nhà nhỏ trực thuộc Đại Chartreuse: 12 nhà thuộc Chartreuse vào năm 1126, có 20 nhà vào năm 1324, có 24 vào năm 1338, có 35 vào năm 1595.
*Thế kỷ 17
Con số thành viên gia tăng (tổng 555 thành viên thuộc Đại Chartreuse, thì có 94,6% bền đỗ).
-1675 - 1703 Le Masson là cha đáng kính – lúc ấy Dòng cư ngụ ở: 16 địa phận; ở Pháp có 66 nhà trong tổng số 160 nhà.
*Thế kỷ 18
Joseph II nước Áo đã đình chỉ 24 nhà.
-1789 cuộc Cách Mạng Pháp, tịch thu tài sản của Giáo Hội.
-1792 đình chỉ nhiều Dòng tu, nhiều cuộc ly tán của các đan sĩ.
*Thế kỷ 19
-1805 chỉ có một vài nhà Chartreuse tồn tại nhưng không có linh mục nào.
-1817 sự trở về với Đại Chartreuse.
-1831-1863 dưới thời cha đáng kính Dom Gioan Baptiste Mortaize: có nhiều ứng sinh trẻ (363 ứng sinh Tk XIX).
-1839 sau hai năm tập thì cho khấn trọng thể.
-1851 một năm tập, bốn năm khấn tạm, rồi khấn trọng thể. Ở Pháp 10 nhà được khôi phục, ở Ý 9 nhà, ở Thủy Sĩ 1, ở Tây Ban Nha 3 nhà, ở Slovenia 1 nhà; đồng thời lập thêm nhiều nhà mới ở Anh và Đức.
*Thế kỷ 20
-1903 bị trục xuất khỏi Pháp – Đại Chartreuse tới Farneta (Lucca) của Ý.
1924 Statuta Ordininis Cart (theo bộ Giáo Luật mới).
-1940 trở về với Đại Chartreuse (4 nhánh nam Chartreuse, 1 nữ Chartreuse được khôi phục).
-1949 hai năm tập, ba năm khấn tạm, khấn trọng thể. Gồm 19 nhà thuộc nhánh nam, 5 nhà thuộc nhánh nữ.
-1969 hai năm tập, ba năm khấn tạm, kéo dài thêm hai năm để tập khấn như khấn trọng rồi mới khấn trọng (19 nhà thuộc nhánh nam, 5 nhà thuộc nhánh nữ).
-1971 và 1975 Tu Luật canh tân (sau Công Đồng Vatican II).
CHƯƠNG 3 ƠN GỌI
“Hãy ngợi khen vinh quang Thiên Chúa, Chúa Kitô, Lời của Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần, Đấng đã tuyển chọn con người ngay từ lúc khởi đầu, và Ngài đã muốn dẫn đưa họ vào nơi cô tịch để họ kết hợp với Ngài trong tình yêu”. (Tu Luật 0.1.1).
Ơn gọi là một thực tại vô cùng huyền nhiệm. Lời mời gọi của Thiên Chúa không hệ tại những gì bên ngoài; nó hiện hữu nơi sâu xa nhất và trung tâm nhất của lòng người. Chúng ta có là gì cũng là do lời mời gọi này.
Muốn hiểu được thực tại này cách thấu đáo hơn, trên hết chúng ta hãy lắng nghe Kinh Thánh. Chúng ta sẽ được bắt gặp nhiều ơn gọi vĩ đại mà Kinh Thánh muốn diễn tả[1] và sẽ sinh động hóa cho chúng ta. Chúng sẽ dạy chúng ta nhiều về tâm lý của những con người được gọi và đường lối Thiên Chúa đã an bài, đồng thời tiếp tục hướng dẫn họ để rồi mặc khải cho họ ơn gọi mà chính họ là đối tượng.
Nhưng nếu chúng ta nhìn lại một chút, chúng ta có thể nhận thức và nắm bắt một cách toàn diện rằng: Kinh Thánh ghi lại lịch sử tính của một ơn gọi, ơn gọi của những người thuộc về Thiên Chúa. Mỗi người cần biết cưu mang[1], bảo tồn ơn gọi chung để ơn gọi riêng có những ý nghĩa đặc biệt của nó.
PHÁT TRIỂN Ý NIỆM ƠN GỌI
TRONG KINH THÁNH
Chúng ta cần học biết đường lối mà Thiên Chúa đã làm nên ơn gọi này qua các thời đại và cách mà những người của Thiên Chúa đã biết ý thức liên lỉ về ơn gọi mình: từng bước ngang qua các sự kiện có tính ảnh hưởng, họ bắt đầu hiểu cách sâu xa ơn gọi của họ nhờ đó ơn gọi đã bén rễ sâu trong họ. Họ học biết sống ơn gọi mình ngày một đúng đắn và trong sáng hơn. Điều này sẽ giúp chúng ta nhận ra điều Thiên Chúa đang nói với chúng ta: chúng ta hãy đổi mới mình bằng việc khám phá sự thật như chính Ngài đã tiền định cho chúng ta. Con đường mà nhờ đó Thiên Chúa dẫn dân Người từ vinh quang tới vinh quang và còn lại đó nơi chúng ta một con đường vô cùng vô tận cho sự hiện hữu một ơn gọi riêng huyền nhiệm của chúng ta.
CỰU ƯỚC
ƠN GỌI CỦA ISRAEL
Israel được gọi xuyên qua các dấu chỉ mà tổ phụ Abraham được chọn và được dành riêng cho sứ vụ của ngài. Trải qua vô số những biến cố lịch sử, dân Chúa khởi( từ tổ phụ Abraham đã thấu hiểu chính ơn gọi ấy như là dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Dù ngay từ đầu có thể họ chưa hiểu lắm nhưng rồi họ cũng nhận biết rằng họ được thông dự hoàn toàn vào tình bạn duy nhất với Thiên Chúa, rằng họ là những người được chia sẻ một cuộc diện kiến linh thiêng huyền nhiệm. Chính tình bạn này giúp họ nhận thức rõ về sự hiệp nhất và làm cho họ thành một dân tộc.
Trước hết cần nhớ những sự kiện vĩ đại trong thời Môsê, chúng đã để lại dấu ấn trên dân này và có thể nói đã phục hồi nhân phẩm của họ: từ cuộc xuất hành Ai Cập, giao ước Sinai và việc ban Lề Luật, sa mạc, cho đến chinh phục đất hứa.
Ngôn sứ Êzêchiel sau này đã diễn tả tình bạn của Israel qua một hình ảnh độc đáo:
“Ta đi ngang qua chỗ ngươi và thấy ngươi giãy giụa trong máu. Thấy ngươi mình đầy máu me, Ta đã phán với ngươi: ‘cứ việc sống!’ Ta làm cho ngươi nảy nở như hoa ngoài đồng. Ngươi đã nảy nở, lớn lên và thành cô thiếu nữ với bộ ngực nở nang, mái tóc mượt mà, nhưng ngươi vẫn trần truồng, không mảnh vải che thân.
Ta đi ngang qua chỗ và thấy ngươi. Này ngươi đã đến tuổi, tuổi yêu đương. Ta đã lấy vạt áo của Ta phủ lên để che thân thể lõa lồ của ngươi. Ta đã thề nguyền và lập giao ước với ngươi – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng – và ngươi thuộc về Ta. Ta đã lấy nước tắm rửa, gột sạch máu me, rồi xức dầu thơm cho ngươi.” (Ed16,6-9).
Trong thời gian dài, đây là một sự nhắc nhở bên cạnh việc diễn tả ơn gọi của họ. Thiên Chúa “đã tìm thấy”, “đã bắt gặp”, “đã gọi”, “đã chọn”, “yêu thích” họ. Những lời này cho thấy rằng dân Chúa đã được Người tuyển chọn từ trước. Tóm lại không còn nhận thức nào cần thiết được đào sâu hơn nữa.
Sau cuộc xuất hành, mọi sự đã trở nên khác. Đã có một sự đổ vỡ trầm trọng. Sự đổ vỡ về con người và đất đai: số nhỏ còn sót lại đã để đất hứa mà họ đã tìm thấy ra hoang tàn, đã để mất vào tay chư dân xa lạ, đền thờ bị lấy mất, tuy nhiên chắc chắn một điều là chúng không thể lấy mất Thiên Chúa của họ được. (Ed11,16). Thiên Chúa cũng muốn tách biệt, không muốn dân Chúa lệ thuộc vào đất đai. Xuất hiện một ý thức lớn hơn về ơn cứu độ phổ quát, về tính siêu việt và duy nhất của Thiên Chúa. Những tượng thần không còn chỗ đứng, và có số phận tệ hại hơn nữa. Đức Chúa là Thiên Chúa của vũ hoàn, là Đấng sáng tạo toàn năng.
Dân Chúa suy nghĩ về ơn gọi của mình cách sâu xa hơn. Cho tới cuộc xuất hành thì việc sở hữu đất hứa vẫn còn là một phần thiết yếu của giao ước. Nhận thức về ơn gọi và thần học sáng tạo cần sâu hơn nữa đồng thời phải có sự hỗ tương.
Chúng ta hãy hết sức chú ý đến chiều kích sâu xa này. Bởi lẽ điều tương tự cũng sẽ xảy ra cho chúng ta. Ơn gọi cá nhân chúng ta ít nhiều mang tính ích kỷ và thiển cận. Nó chỉ xuất hiện sau khi phá vỡ “ngẫu tượng” và “lý tưởng” của chúng ta nhờ sự quan phòng của Thiên Chúa, hay bởi một vài ý nghĩa khác giúp chúng ta đụng chạm chỗ sâu nhất của lòng mình, nơi ấy Ngôi Lời kêu gọi chúng ta trở nên…không.
TOLEDOT
Giữa thời điểm của cuộc xuất hành, Thiên Chúa hiện ra giữa dân Người với quyền năng vô biên và một nhà tư tưởng sâu sắc đã giới thiệu về một cuộc thần hiện kỳ diệu trong dự phóng thiêng liêng. Chúng ta không biết tên ông là gì. Nhưng hẳn ông là một tư tế, vì vậy chúng ta gọi tác phẩm của ông là, giòng văn tư tế, bằng một chữ “p” đầu chữ. Công việc này định hình phần nào truyền thống khả dĩ cung cấp sườn cho việc biên soạn bộ Ngũ Kinh và do đó cung cấp ý nghĩa sau cùng cho tất cả các sự kiện mang tính lịch sử.
Xuyên qua một loạt trình thuật bắt đầu bằng chữ Hipri “Toledot”: “Đây là gia phả (một lịch sử) của…” (St5, 1; 6, 9…vv.). “P” nối kết sự sáng tạo vũ trụ với giao ước của tổ phụ Abraham và sự phát sinh dân Chúa, toàn bộ lịch sử của Môsê, cuộc Xuất Hành và giao ước Sinai. Bởi thế ngài đã thực thi dự phóng của Thiên Chúa, toàn bộ luật tự nhiên đều quy hướng về thiêng liêng, và toàn bộ công trình sáng tạo thế giới đều quy hướng về ơn gọi của Israel. Tác giả cho rằng nguồn gốc của mọi sự có liên quan trước hết với các gia phả. Còn Tin Mừng chính là sự liên hệ sau cùng, mặc khải sách gia phả Đức Giêsu Kitô, con vua David, con cái tổ phụ Abraham (Mt1,1), con ông Nô-ê, con ông tổ loài người Adam, con Thiên Chúa (Lc3, 23 - 38).
ISAIA II
Một tác giả vĩ đại khác xuất hiện cuối thời lưu đày, một con người hoàn toàn khác biệt, người có công tổng hợp những giáo lý cùng một giáo lý có tính khả thi hơn cho chúng ta. Một thi sĩ đầy đam mê, ông đã phổ nhạc những bài thơ thành những bài hát tuyệt hay, chúng ta không biết tên ông. Ông là một ngôn sứ kế thừa ngôn sứ Isaia và được gọi là Isaia thứ hai. Tác phẩm của ông có tựa đề là “Cuốn Sách An Ủi”. (Is40-55).
Lại một lần nữa, chúng ta tìm thấy ơn gọi Israel một cách minh nhiên và không thể chối cãi, hơn nữa có tính đồng nhất với việc hình thành ơn gọi Israel và đi xa hơn trong dự phóng thành hình ơn gọi phổ quát.
“Nhưng bây giờ, đây là Lời Đức Chúa phán, Lời của Đấng tạo thành ngươi, hỡi Giacob, lời của Đấng nắn ra ngươi, hỡi Israel: đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is43,1).
“…Đó là tất cả những người mang danh Ta, đã được Ta tạo dựng, nắn thành hình và làm nên, cho danh Ta rạng ngời vinh hiển.” (Is43,7).
LỜI
Sự kết nối này trong ý niệm ơn gọi đối với công cuộc sáng tạo; làm sáng tỏ tính chủ động hoàn toàn và nói lên quyền năng của Thiên Chúa, đặt nền tảng trên ý niệm sâu xa của Lời. Tác giả “P” đã chỉ cho chúng ta thấy thế giới được sáng tạo bởi Lời Thiên Chúa. (x.“Thiên Chúa phán” trong sách Sáng Thế 1). Isaia thứ hai đã khai thác theo hướng này một cách sâu xa: ông chiêm ngưỡng công trình sáng tạo như một lời mời gọi hiện hữu. Lời gợi ý này chỉ tìm thấy sự đúng đắn mang tính siêu hình trong sách Khôn Ngoan (“Cái gì có thể hiện hữu được khi người chưa gọi nó?” Kn11.25), nhưng cũng là một hình thức xuất hiện xuyên suốt trong sách An Ủi.
“Hãy nghe Ta, hỡi Jacob, hỡi Israel, kẻ Ta đã gọi! Ta vẫn là Ta, Ta là khởi nguyên, Ta cũng là cùng tận. Chính tay Ta đã thiết lập địa cầu, tay hữu Ta đã trải rộng trời cao. Ta gọi chúng, chúng cùng nhau trình diện.” (Is48,12-13).
Lời Chúa trước tiên tự thân mang tính sáng tạo: nó kêu gọi và con người hiện hữu; đây quả là một sự sáng tạo. Nó bày tỏ mình qua việc phân ra từng nhiệm vụ. Nó kêu gọi những con người mà nó đã tạo thành, đây là ý nghĩa ơn gọi của mỗi người. Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách Lời này đã được ban cho con người qua các ngôn sứ và luật lệ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa gọi đích danh mỗi người trong chúng ta dưới hình dáng một con người. (Dt1,1)
Bởi vậy, toàn bộ Kinh Thánh, từ công trình sáng tạo cho đến công trình nhập thể, có thể được nhìn nhận như một hiện thân của Lời bất diệt. Isaia II chính là ngôn sứ của Lời, cũng như thánh Gioan là tác giả Tin Mừng[1]. Lời Thiên Chúa mời gọi mọi người đi vào sự hiện hữu, mỗi thứ “tùy theo loại” (St1,11).
Mỗi sinh vật được dựng nên cho một mục đích nhất định nào đó: cây sinh hạt giống, hay đúng hơn được khắc sâu trong bản chất của nó.
Con người cũng vậy, được dựng nên cho một mục đích và vì chúng ta có lý trí cũng như tự do nên Thiên Chúa dùng Lời của Người mà thông tri kế hoạch( của Mình cho chúng ta. “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất’” (St1,28). Nói chung đây là ơn gọi của chúng ta, là nguồn phát sinh mọi khả năng sáng tạo và hoạt động của chúng ta.
Nhưng mỗi người đã được tiền định một lối sống riêng phục vụ cho việc hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa. Tình bạn giữa hai người mãi mãi là độc nhất và chính vì lý do này mà một lời mời gọi tầm thường hiện hữu và hoạt động là không xứng đáng. Cần có một lời mời gọi cá biệt và điều này muốn nói đến ơn gọi trong ý nghĩa riêng dù vẫn ở trong một đường hướng chung.
Nhưng có một ý nghĩa đặc biệt hơn: một cách chắc chắn, Thiên Chúa tiền định cho mọi người thuộc về Ngài theo cách riêng, ngang qua việc tuyển chọn hay dùng vào một sứ vụ. Cũng vậy, dân Chúa đã được tuyển chọn, được nâng lên và được trao cho một sứ vụ đặc biệt, vì thế lời mời gọi sẽ nhắm đến ơn gọi của dân riêng mà Kinh Thánh đã bày tỏ cho chúng ta. Thiên Chúa cần, Thiên Chúa hạ mình xuống cần đến con người. Ngài hướng dẫn dân Ngài qua những con người cụ thể, Ngài khiển trách, dạy dỗ, đánh phạt và đã bày tỏ mình cho họ qua nhiều trung gian. Ơn gọi vĩ đại của Isaia được hình thành, trở nên đặc biệt trong nhiều ơn gọi khác nhau: trưởng lão, thủ lãnh, các vua, thẩm phán, ngôn sứ, sứ giả của Lời, những con người được xức dầu và các tư tế.
Những vấn nạn sai lầm được đặt ra là tại sao Thiên Chúa lại gọi người này kẻ kia: tại sao Người lại đặt người này kẻ kia vì mục đích này nọ. Nhưng một ngày kia, có người cũng sẽ được chọn, họ cũng sẽ nghe theo tiếng gọi. Đồng thời, họ khám phá ra mình được gọi – ít nhiều họ biết lờ mờ rằng tại sao họ được gọi: để phục vụ Thiên Chúa cách tinh tuyền và dưới hình thức này, sự mặc khải sẽ phát sinh ân sủng thiết yếu cho việc kiện toàn ơn gọi.
Một cách chắc chắn, ơn gọi đã được ghi khắc trong tâm khảm chúng ta rồi, nhưng không nhất thiết như một cây táo sinh ra quả táo và chỉ sinh ra quả táo mà thôi – nhưng bởi vì mọi sự lệ thuộc vào dự phóng( của Thiên Chúa, của Lời độc nhất, Lời đã gọi chúng ta trong ánh sáng của ơn gọi này, Lời đã chuẩn bị chúng ta cho ơn gọi trong nguồn mạch của đời sống ngang qua những cách thế thường rất mầu nhiệm, và sau cùng chính Đấng ấy mời gọi chúng ta nên hoàn thiện giữa “lòng”( Vương Quốc của Người.
GIAO ƯỚC MỚI
Lời đã thành xác phàm trong “cung lòng”( Đức Trinh Nữ Maria. Lời Chúa được đón nhận qua sự đáp trả triệt để khả dĩ trở thành xác phàm. Tiếng “xin vâng” của Mẹ là hình ảnh tiên báo tiếng “xin vâng” của Hội Thánh và của tất cả các thánh. Con người sống là để nói lên tiếng “xin vâng” này, vượt trên mọi lời kinh của con người, có thể nói rằng nhờ vậy mà con người mới ý thức đầy đủ về phẩm giá của mình. Từ nay, nhờ Lời nhập thể mà Thiên Chúa sẽ kêu gọi chúng ta đến với Ngài. Cũng nhờ quyền này, Đức Giêsu đã gọi các môn đệ đầu tiên theo Người: “Hãy theo Thầy”. Sau khi về với Chúa Cha, Lời của Người lại nhờ Thánh Thần và Hội Thánh để đến với chúng ta qua các thời đại.
Phẩm giá bất khả nhượng của con người hệ tại ở việc được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (St1,26-27) trong toàn bộ bản thể, lý trí, tự do và tình yêu của họ. Nhưng tự do này có giới hạn, đồng thời hình ảnh Thiên Chúa cũng bị tội lỗi làm lu mờ; hình ảnh này được mặc khải hoàn toàn khi Chúa Kitô đến. “Hãy chiêm ngưỡng hỡi con người!” Chính Đức Kitô bởi ý Thiên Chúa đã trở nên trưởng tử. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa Kitô. Chỉ có Chúa Kitô mới có khả năng mặc khải cho chúng ta biết chính mình. Chỉ có Chúa Kitô mới có thể chỉ cho chúng ta biết Chúa Cha.
“Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất…nhờ Người và cho Người.” (Cl1,15-16).
Con người chỉ đạt tới sự hoàn thiện thực sự khi làm người viên mãn, là người trong sự tuân phục đối với Chúa Kitô, nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, điều ấy chứng tỏ một người tội lỗi đã được biến đổi tận căn khả dĩ trở thành thụ tạo mới, như hình ảnh mà họ trở nên giống Lời nhập thể. (1Cr15,49).
“Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep4,23-24).
“Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc.” (Rm8,29).
Điều này nghĩa là sao?
“Tất cả chúng ta, mặt không màn che, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.” (2Cr3,18).
Người kitô hữu không phải là một loại người tách biệt nhưng mỗi người sống cái mình là. Và đan sĩ cũng không phải là những kitô hữu dị thường. Họ chẳng qua sống đúng đắn hơn đời sống kitô hữu, trở về với bản chất đời kitô hữu. Tuân phục Đức Kitô trong đức tin, cậy, mến: đây là sự thánh thiện và mỗi người được mời gọi để đạt tới sự hoàn thiện này.
Tuy nhiên, con người không hiện hữu trên đời như những “ốc đảo”. Nhân loại là một, Thân Mình Chúa Kitô cũng chỉ là một. Nó được sinh động hóa bởi Thần Khí duy nhất, Đấng ban cho mỗi một vị trí và cùng với chức năng riêng biệt trong Hội Thánh. Cũng như trong Cựu Ước, dĩ nhiên dân Chúa được gọi để đóng vai trò đặc biệt cho lợi ích của toàn dân.
“Nhưng mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tùy theo mức độ Đức Kitô ban cho…để xây dựng thân thể Chúa Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hợp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô…trong tình bác ái.” (Ep4,7,12-13,16).
Chúng ta sẽ cố gắng đào sâu ơn gọi[1] mình trong ánh sáng của những phần thưởng căn bản do đức tin chúng ta. Cần phải thêm rằng chỉ có tình yêu mới có khả năng làm thỏa mãn phần thưởng của tất cả con người chúng ta cũng như tất cả đời sống chúng ta. Tình yêu này có nguồn mạch vô biên nơi Chúa Cha; cách thức và việc thể hiện tình yêu thuộc về Chúa Con; sức mạnh thì thuộc về Chúa Thánh Thần; cùng đích của tình yêu quy hướng về sự thông hiệp trọn vẹn đời đời nơi Ba Ngôi Chí Thánh.
“Khi khấn hứa là lúc chúng ta nung nấu mình bằng tình yêu thánh thiêng.” (Brunô).
CHƯƠNG 4 LỜI MỜI GỌI
Quan niệm về ơn gọi bao hàm trong đó một lời mời gọi do Thiên Chúa và một lời đáp trả từ phía con người. Điều này được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhất là trong một thế giới thực dụng. Cùng lúc có nhiều điều đảm bảo để chúng ta có thể suy tư.
SÁNG TẠO TUYỆT ĐỐI
CỦA THIÊN CHÚA
Trước khi ơn gọi được hình thành như một ý niệm của chúng ta thì ơn gọi chúng ta đã là ý niệm của Thiên Chúa rồi, là một sự chọn lựa: “Không phải anh em đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga15,16). Sự chọn lựa này có trước cả sự hiện hữu của người được gọi: “Trước khi ngươi được thành hình trong dạ mẹ thì Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi được sinh ra, Ta đã chọn ngươi” (Jr1, 5). Đó là hiệu năng của một quy luật vĩnh cửu ở một thời điểm hiện tại: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người…để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời…” (Ep1,4.6).
Đây là sự kết nối đầu tiên trong chuỗi những sự kiện đời sống chúng ta.
“Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.” (Rm8.29-30).
Chúng ta biết rằng thánh Phaolô đã sử dụng thì quá khứ trong đoạn văn này để diễn tả xác tín của ngài rằng hành động sáng tạo của Thiên Chúa sẽ đưa đến cùng đích của ơn gọi trong sự tôn trọng tự do chúng ta.
Trong nguồn mạch, lời mời gọi tự bản chất hòa tan vào đời sống thiêng liêng. Chữ “gọi” (vocare) gợi cho chúng ta suy nghĩ về một sự chất vấn hoặc thách thức của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng rõ ràng Lời Thiên Chúa đụng chạm đến chúng ta trong một cấp độ sâu và tinh tuyền hơn. Ngay khi Lời đi sâu vào chúng ta, làm cho chúng ta trở thành những con người, để việc kêu gọi mỗi người chúng ta được sáng tạo từ hư vô đi đến hiện hữu. Tuyệt nhiên không có gì ngoài Lời sáng tạo. Chúng ta hiện hữu là vì Thiên Chúa gọi chúng ta hiện hữu. Chúng ta là những con người vậy nên, một cách thân tình, Thiên Chúa đã ghi khắc vào chúng ta một lời riêng.
Để đến trước Thiên Chúa trong mức độ tối thượng này, không có gì hơn, không phải những kiến thức cũng chẳng phải sự khốn cùng, không phải cái đẹp cũng chẳng phải cái xấu, mà thực sự có một năng lực thúc bách việc chọn lựa thiêng liêng đối với chúng ta. Một cách độc nhất vô nhị nơi Hữu Thể Thiên Chúa mà ngang qua đó chúng ta tìm ra nguồn mạch, tính cách duy nhất nơi Thiện Thể đã cho đi chính mình bằng “cái đức” của chính sự Thiện.
“Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Jr31,3)[1].
“Thiên Chúa là” có nghĩa là “Thiên Chúa yêu”. Bởi Thiên Chúa là tình yêu (1Ga4,8). Không phải bằng một hành động mà bằng chính cả bản thân Ngài, vì mục đích cho chúng ta, nhưng đó là một hành động đời đời. Hành động ấy không gì khác hơn cũng chính là bản thân Ngài, tất cả con người của Ngài. Nguồn gốc của ơn gọi chúng ta là tình yêu. ‘Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta (người thanh niên giàu có) và đem lòng yêu mến, Người bảo: “…Hãy theo Thầy”’ (Mc10,21). Sự thật Thiên Chúa là tình yêu nhưng không buộc Ngài phải yêu chúng ta như là một nhu cầu bất di bất dịch. Tự do của Thiên Chúa là tuyệt đối. Không có gì có thể ép buộc được tự do của Ngài. Nếu Thiên Chúa yêu, là bởi vì Ngài muốn yêu. Yêu không lý do. Tình yêu của Thiên Chúa đối với các thụ tạo của Ngài luôn luôn như chiếc cầu bắc qua vực thẳm vô đáy. Chúng ta không thể giam hãm được tình yêu. Mỗi người trong chúng ta chỉ có thể đón nhận với lòng khiêm hạ biết ơn, đầy sự thán phục. Chẳng phải đó là lý do để chúng ta giữ lại sự thán phục ấy, và đó cũng là đặc tính riêng của thánh Brunô: “O Bonitas!” hay sao? “Tình yêu cốt ở điều này, không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta…phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga4,10 và 19).
Israel cũng ý thức về ân huệ nhưng không này:
“Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. Nhưng chính là vì yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà Đức Chúa đã ra tay uy quyền đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ.” (Đnl 7,7-8).
Thánh Phaolô căn dặn chúng ta đề phòng tất cả những cám dỗ về sự kiêu ngạo:
“Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem:…những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người…Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.” (1Cr1,26-29 và 31).
THIÊN CHÚA QUYẾN RŨ
“Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.” (Hs2,16).
Tình yêu tìm kiếm và làm nên sự thông hiệp riêng tư và thân tình. Tuy nhiên, để quyết định trao ban món quà tình yêu của Người hay đúng hơn là trao ban chính Người cho chúng ta, Thiên Chúa phải tôn trọng tự do của chúng ta. Tình yêu của chúng ta chỉ có thể là tự do. Thiên Chúa sẽ không ép buộc chúng ta. Người theo đuổi tán tỉnh chúng ta, người dẫn dắt chúng ta bằng “dây nhân nghĩa, bằng mối ân tình.” (Hs11,4)
Người mặc khải một chút vẻ đẹp của Người qua các thụ tạo của Người, nhất là trong Chúa Kitô. Người đánh thức trong lòng chúng ta những khát vọng mênh mông và sâu thẳm mà chúng ta không thể kể xiết. Người làm cho chúng ta ý thức về sự nghèo nàn, tội lỗi và sự cô đơn nội tại trong chúng ta. Có thể chúng ta sợ phải đối mặt với những gì chưa biết hoặc từ những yêu sách của Chúa Kitô, điều mà chúng ta chỉ biết phần nào ít ỏi: chúng ta có thể lẫn trốn Người, chúng ta ẩn mình đi, nhưng một ngày nào đó đứng trước lời mời gọi của Người chúng ta phải trả lời “có” hoặc “không”, sự đáp trả này ứng với sự trao ban của tình yêu Thiên Chúa.
Nếu chúng ta thưa “có” thì chính nhờ hấp lực sâu thẳm mà Thiên Chúa sẽ huấn luyện trái tim chúng ta, một sự cuốn hút vô cùng mạnh mẽ bởi lẽ chúng ta không thể nói lên lý do[1] của sự cuốn hút ấy. Vì được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa nên con người bị cuốn hút lại gần Đấng Tạo Hóa một cách mạnh mẽ không thể cưỡng lại được. Chúng ta cần phải yêu. Chúng ta có khả năng khao khát Đấng Thiện Hảo và yêu mến Đấng Tình Yêu. Chúng ta được tạo dựng nên là cho ánh sáng và cho sự kết hiệp. Ở mọi nơi, mọi lúc con người có thể cảm nghiệm sự cuốn hút của Thiên Chúa và tôi sẽ chấp nhận kiểu nói rằng mỗi người say mê Thiên Chúa, dù cho họ gọi Người là anti-God (Thiên Chúa đối nghịch) hoặc bằng vài cái tên khác. Những con người chiêm niệm thuộc mọi tôn giáo đều có một trực giác siêu nhiên rất lớn, Thiên Chúa gọi họ đến kết hợp mật thiết hơn với Người. Đây là những anh chị em của chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta sẽ không được nhìn thấy Đấng cuốn hút chúng ta. “Nhưng điều gì khiến tôi yêu Thiên Chúa?”[1], đó là điều mà thánh Augustinô đã thốt lên. Cũng như thánh Augustinô, người được cuốn hút gặp phải một thách đố lớn trong việc đáp trả. Có lẽ vì vậy mà nó trở thành một yếu tố của sự cuốn hút: “Vực thẳm kêu gào vực thẳm” (Tv42,7). Khoảng thời gian giữa sự cuốn hút thực sự khiến cho người mới bắt đầu cảm nghiệm được và điều ấy nói lên rằng họ có thể cho đi chính cái tiếng tăm và đôi khi những điệu bộ giả tạo cũng cho thấy nhiều vấn đề về khả năng phân định. Nhưng chắc chắn đối với một ơn gọi hướng về sự ẩn tu cô tịch thì lời cầu nguyện phải có một trực giác sâu thẳm về Thiên Chúa, về mầu nhiệm nguyên truyền của Người trong nơi không còn sự cô đơn nhờ những linh đạo ẩn mình nơi sa mạc. Chúng ta chỉ đạt được sự quên mình nhờ những con đường thầm lặng. Chỉ một mình Thiên Chúa độc nhất mới có khả năng dẫn tới Thiên Chúa. “Duy nhất” cụm từ này tác động trên người đan sĩ (moros) vừa như một sự ràng buộc không thể chịu nổi vừa như một lời hứa vô định đưa đến một sự hợp nhất hoàn hảo với Ngài trong tình yêu và sự thật. Sự cô tịch này là vô nghĩa, nó chỉ hiện hữu thật sự khi diễn tả sự thỏa mãn cơn khát nội tâm, đó chính là một lời đáp cho sự lôi kéo của tình yêu. Những người được yêu tìm vào nơi cô tịch để khám phá chính mình và để hợp nhất nên một. Tình Yêu thầm lặng là đủ rồi. Chỉ cần Tình Yêu là đủ.
Một kinh sư hỏi Chúa Giêsu:
“Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Đức Giêsu trả lời: “điều răn đứng đầu là: nghe đây hỡi Israel , Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Thiên Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn điều răn đó.” (Mc12,28-31)
VẬT LỘN VỚI THIÊN CHÚA
Sự bình an của Đức Maria và tiếng thưa “vâng” dứt khoát nói lên tinh thần đơn sơ và một trái tim tinh tuyền của Mẹ. Điều thường xảy ra là lời mời gọi của Thiên Chúa ghi vào một tâm hồn hỗn độn, một tâm hồn tan vỡ và ít nhiều đang bị thương, những vết thương do tội lỗi, cũng tạo nên một lịch sử cá nhân rất rối ren. Đây là một sự thật trên hết trong thời đại của chúng ta. Sự theo đuổi của Thiên Chúa chạm trán với sự chống đối của xác thịt và trở thành một ngọn lửa vô cùng nóng.
Người được gọi sẽ chống lại Thiên Chúa. Có nhiều lúc chúng ta như bị Chúa[1] đánh rồi lại được chữa lành. Chúng ta biết đề tài vật lộn giữa Jacop với Thiên Chúa (St32,23-33) trong truyền thống đan tu là rất quan trọng. Cuộc vật lộn này nằm giữa bóng tối và ánh sáng, có thể trải qua nhiều năm tháng. Thỉnh thoảng người ấy có thể bị đánh trên thân xác của họ, như Jacop đi đứng khập khiễng.
Nhiều lúc đây cũng là dấu chỉ của một sứ vụ đặc biệt, vượt ra ngoài khả năng của người được gọi. Bởi vậy, Chúa như vị Thầy đã gọi ai thì dẫn đưa họ đến nơi mà họ không muốn như Phêrô (Ga21.18). Môsê chạy trốn trước sứ vụ của mình (Xh3 và4). Phaolô nói rằng đã được “Chúa Kitô chiếm đoạt.” (Pl3,12). Sau khi chịu nhiều đau khổ, ngài mới hiểu rằng sự yếu đuối của mình là sức mạnh của Chúa Kitô trong chính mình (2Cr12,7-20). Khó dường nào để có thể hiểu và sống sự thật này!
Đối với Giêrêmia, cuộc vật lộn với Thiên Chúa trong cuộc đời ngài là một kinh nghiệm đau đớn. Đây quả là một tình trạng cùng cực, nhưng cũng vì vậy mà nhiều tình trạng cùng cực khác đã thuyên giảm bớt, và hẳn những yếu tố ấy làm cho ơn gọi này trở thành riêng biệt hơn đối với ơn gọi khác.
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con…Có lần con tự nhủ: “tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa.” Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr20,7.9).
Không một chút tương xứng trong tình bạn này. Giêrêmia muốn chạy trốn ơn gọi của mình, nhưng lời đã được gieo vào ngài và như một ngọn lửa nội tâm, nhào nặn, thiêu đốt ngài. Chúng ta nên biết đoạn văn này là một lời độc thoại, cũng như tất cả các đoạn văn, đều được trình bày như những lời tự thuật, ở đó Giêrêmia trình bày cho chúng ta biết về nỗi khốn khổ[1] của ngài. Thiên Chúa không trả lời và cũng chẳng giải thích. Giêrêmia cảm thấy bị Thiên Chúa bỏ rơi. Ngài không hiểu.
Làm sao có thể dứt bỏ được quá nhiều khó khăn đối với ơn gọi của người này, trong khi khó khăn ấy lại đối nghịch với độ nhạy cảm cực mạnh của người ấy, làm sao người ấy trung thành theo con đường này đến cùng, ngay như một siêu nhân biết tùng phục một thể chế cũng phải tan vỡ? Đây là một bí ẩn ngay cả với Giêrêmia. Tại sao Thiên Chúa lại để cho đời sống của một vị sứ giả trung thành rơi vào một đêm tối kinh hoàng như vậy? Đây là một bí mật của Thiên Chúa. Con đường mà Giêrêmia đi chìm ngập trong đau khổ và không có bất cứ tác động gây xúc động nào, mọi sự cứ mất đi như nước trên bãi cát. Một con người được thông chia sự đau khổ của Thiên Chúa nơi tội lỗi của dân Người. Chỉ có thứ tự do trái khuấy đối với người ấy mới là thứ tự do để chịu đựng đau khổ.
Chúng ta đi quá xa trong những quan niệm này, một chút hơi quá về hiểu biết và ý thức về “cái đúng” của chúng ta, dựa trên một lập trường mà đôi khi chúng ta chấp nhận là con trong tương giao với Thiên Chúa mà quên rằng Ngài là Chúa. Trong điều kiện ấy, mặt thật của tự do chúng ta là rất huyền nhiệm. Chúng ta có chắc rằng mình biết nó là gì không? Chúng ta phải đặt tự do của chúng ta vào mức độ sâu nhất trong con người chúng ta, vượt xa tất cả những điều kiện bên trong và bên ngoài, vượt xa những xao xuyến của tình cảm. Ngay như Giêrêmia, con người ngoại lệ, cũng đã coi tự do như là nền tảng của ý chí để nói “có” hoặc “không”.
Và chúng ta phải hiểu những con người đã được thử thách. Những lời tự do của Giêrêmia đôi lúc đi đến thái độ báng bổ, nhưng không phải bất cứ cách nào cũng gây mâu thuẫn giữa tự do và sự quy phục sâu xa của ý muốn ngài. Trong trường hợp của Giêrêmia, sự thật luôn mang tính nghịch lý. Ngay cả cuộc nổi loạn của Giêrêmia, nó là bằng chứng cho tình yêu vĩ đại của ngài đối với Thiên Chúa.
TÔN TRỌNG TỰ DO
CỦA CHÚNG TA
Việc nhận ra sự “nài ép” thiêng liêng là hết sức quan trọng, nó bó lại hoàn toàn cái tự do sâu thẳm nhất, và đây là loại “bắt buộc” tâm lý, bên trong hoặc bên ngoài, nhờ vậy có thể tự giảm bớt hoặc xua đuổi hoàn toàn được tính chất bắt buộc. (Tu Luật1,9,3).
Hầu như tất cả các loại ảnh hưởng về xã hội, kinh tế, tri thức và nhiều ảnh hưởng khác nữa đều có tác động trên chúng ta. Cũng như hầu hết mỗi người trong chúng ta được thành hình do di truyền, có tuổi thơ, có lịch sử cá nhân làm nên một tổng thể phức tạp gồm nhiều yếu tố. Có thể do tội lỗi chúng ta và việc khước từ tình yêu nơi chúng ta làm cho chúng ta trở nên yếu nhược và mù lòa. Hay nhiều động cơ của chúng ta trở nên phức tạp hơn và ít mang tính vị kỷ[1] hơn khi nó quay về ban sơ. Lòng con người sâu thẳm dường nào.
Trong khi đó, sự hình thành không phải là lực cản bất khả tiếp cận đối với hành động của Thiên Chúa. Người đón nhận chúng ta như chúng ta là. Nói đúng hơn, đôi khi phải nhờ đến nhiều ý nghĩa về những giới hạn và thương tích của chúng ta mà Người dẫn chúng ta đến với Người. Tuy nhiên, một đánh giá mang tính tâm lý đối với nhân cách chúng ta một cách tỉ mỉ và thấu đáo chỉ thích hợp ở mức độ thắc mắc của những chiếc máy tâm lý mà thôi. Việc đọc ra những đặc điểm con người một cách hoàn hảo hơn là tương đối khả thi, nó đi vào tự do nội tại mang tính sáng tạo và bất khả nhượng của chúng ta và thậm chí một cách hoàn hảo và thâm thúy hơn, đó sẽ là một chiều kích thiêng liêng. Ở đây có một sự biện phân khá tinh tế về các thần khí đi trong cuộc chiến.
Một ánh nhìn trong sáng và một nỗ lực hoàn toàn chân thành là không thể thiếu được. Tuy nhiên, chúng ta hãy xác tín rằng tự do thực sự của chúng ta hệ tại ở tiếng “xin vâng” trong cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta bản thể và sự hiện hữu. Việc đáp trả của chúng ta đối với ơn gọi lệ thuộc vào mức độ chúng ta thể hiện sự hoàn mỹ đó hay không. Không bao giờ có sự mâu thuẫn với lời mời gọi mà Thiên Chúa đã sáng tạo từ sự vô hạn đời đời và trong thời gian. Trái lại, theo ý định của Thiên Chúa, chúng ta được Thánh Thần dẫn dắt và uốn nắn để chúng ta được tự do, tự do thực sự của con cái Thiên Chúa, vì lý do đó mà Chúa Kitô đã muốn làm cho chúng ta được tự do. “Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do.” (2Cr3,17).
Chính nhờ sức mạnh của tình yêu và ánh sáng sự thật của Chúa Kitô mà một cách tiệm tiến chúng ta có quyền được hưởng tự do. “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.” (Ga8,31-32).
|
|