|
Bài 7 – Quan hệ giữa thánh Phêrô và Phaolô thế nào?
Thánh Phêrô được Chúa Giêsu chọn đứng đầu nhóm Mười Hai, và đứng đầu Giáo hội. Ngài giữ một vai trò đặc biệt và quan trọng trong nhiều cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên (Mat 16:17-19; Mar 3 Cvtd 2:14-36). Vai trò của Phêrô luôn được kính trọng vì quyền năng lãnh đạo. Chức năng của Phêrô đối với các tông đồ là cổ võ sự hợp nhất, trợ lực những anh em tông đồ trong những hoàn cảnh khó khăn, và tìm cách giải quyết những vấn nạn có trong Giáo hội.
Thánh Phaolô trân trọng vai trò này của thánh Phêrô. Cũng nên biết là vai trò của Phêrô thời đó không hoàn toàn như vai trò Đức Giáo Hoàng ngày nay đối với các giám mục. Với Giáo hội sơ khai, thánh Phaolô là người thành lập nhiều cộng đoàn Kitô hữu, nhất là các cộng đoàn dân ngoại (không phải là người Do Thái). Vì thế, Phaolô có một ảnh hưởng đặc biệt trên họ, và họ lắng nghe Ngài qua những giáo huấn trong thư Ngài gởi. Có lúc Phaolô chất vấn Phêrô về những vấn đề như việc cắt bì cho người theo Kitô giáo, hay ăn của cúng v.v… Đây không phải là chống đối hay thách đố quyền cai trị của Phêrô mà là những khám phá về thần học mà Phaolô tin là Ngài được linh ứng từ Chúa Giêsu Kitô liên quan đến việc truyền giáo cho dân ngoại. Điều chắc chắn là Phaolô vẫn phục quyền Phêrô về những giáo huấn này.
Bài 8 – Quan hệ giữa Phaolô với những tông đồ và Kitô hữu khác thế nào?
Là một người bắt bớ Kitô hữu và hãm hại Hội thánh, Phaolô gặp nhiều khó khăn khi đi rao giảng tin mừng Chúa Giêsu Kitô: những tiếp đón không niềm nở hay nghi kỵ của các Tông đồ, các môn đệ và Kitô hữu.Trong thư gởi tín hữu Corintô kể về việc Chúa Kitô Phục sinh hiện ra, Phaolô nói: trước là với Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, với hơn năm trăm anh em.. Tiếp đến, với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau cùng… với tôi (1 Cor 15:5-8).
Với các Tông đồ, Phaolô nói đến việc Ngài gặp Phêrô, Giacôbê và Gioan trong những lần khác nhau. Sau khi gặp Chúa Giêsu trên đường Damas, Phaolô lên Giêsuralem gặp Kêphas trong 2 tuần (Gal 1:18), và găp Giacôbê, người anh em của Chúa (Gal 1:19). Phaolô cũng gặp Gioan, một trụ cột của Giáo hội (Gal 2:9). Không thấy Phaolô nói đến việc gặp các Tông đồ khác.Với Phêrô, có lúc Phaolô đối chất trực diện về điều mà ông cho là Phêrô giả hình. Khi một số môn đệ của Giacôbê (có lẽ là người Do thái tin theo Chúa Kitô) gặp Phêrô ở Antiokia, Phêrô vì nể hay sợ những người Do thái này nên đã không dám ngồi ăn với những người dân ngoại (không chịu cắt bì). Phaolô trách Phêrô và những người theo ông là giả hình (Gal 2:12-14).
Phaolô gặp nhiều khó khăn khi tranh đấu dành cho mình vị thế của một Tông đồ trong việc mục vụ. Luca ghi lại chuyện Phaolô lên Giêrusalem để họp Công đồng liên quan đến vấn nạn truyền giáo cho dân ngoại: liệu người muốn gia nhập giáo hội mà không là Do thái có phải chịu phép cắt bì không? Luca kể lại trong sách Công vụ tông đồ với những lời xoa dịu tình trạng căng thẳng của cuộc họp, trình bày một cuộc họp chung, công khai với những nhà lãnh đạo giáo hội: sau khi nghe Phaolô và Barnaba trình bày, Phêrô và Giacôbê lên tiếng và cả hai đồng thuận không cần cắt bì với những người ngoại theo Kitô giáo (Cvtd 15:1-21).
Trong thư Phaolô viết, Ngài nói đến việc gặp riêng với một vài nhân vật lãnh đạo quan trọng như Phêrô, Giacôbê, và Gioan. Và dù ba vị này đồng ý với Phaolô, nhiều người khác vẫn không đồng ý (Gal 2:1-10).Với những Kitô hữu khác, sách Công vụ tông đồ cho hay là Khanania phản đối Chúa khi được sai đón tiếp Phaolô: Lạy Chúa, con đã nghe lắm kẻ nói về người ấy, về tất cả những điều ác người ấy đã làm… (Cvtd 9:13-14).Khi Phaolô đến Giêrusalem, “ông Sao-lô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ” (Cvtd 9:26).Ngay Phaolô cũng nhận là nhiều người biết Ngài chỉ qua việc Ngài bắt bớ đạo thánh Chúa: “Nhưng lúc ấy các Hội Thánh Đức Kitô tại miền Giuđê không biết mặt tôi. Họ chỉ nghe nói rằng: Người trước đây bắt bớ chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu diệt” (Gal 1:22-23)
Đọc thư thánh Phaolô, chúng ta có thể đọc được tâm trạng của một người mang nhiều ưu tư, phải tự biện minh cho việc làm và con người mình, chỉ vì sự nghi ngờ của những người chung quanh. Trong thư gởi tín hữu Côrintô, Ngài viết:
“Tôi không tự do ư? Tôi không phải là tông đồ ư? Tôi đã không thấy Đức Giêsu, Chúa chúng ta sao? Anh em không phải là công trình của tôi trong Chúa sao? Nếu đối với những người khác tôi không phải là tông đồ, thì ít ra đối với anh em tôi là tông đồ, vì ấn tín chứng thực chức vụ tông đồ của tôi trong Chúa chính là anh em. Đây là lời biện hộ của tôi chống lại những kẻ hạch sách tôi” (1 Cor 9:1-3).
Nơi khác, Phaolô mạnh mẽ khắng định quyền năng giảng dạy của mình, và nhắc nhở cho các tín hữu rằng sứ mạng ngài lãnh nhận không từ các Tông đồ hay tự mình, nhưng trực tiếp từ Thiên Chúa (Gal 1:1, 12). Phaolô tự nhận mình bất xứng: “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa” (1 Cor 15:9).Tất cả những dữ kiện trên cùng với lối viết thư có tính cách tự biện luận của thánh Phaolô có thể cho ta thấy một chút những đối xử của nhiều người đương thời đối với thánh nhân. Trong khi được chấp nhận và kính nể từ những cộng đoàn của dân ngoại (người Hi lạp hay Rôma) theo Chúa Kitô, Phaolô cũng gặp nhiều nghi kỵ, chống đối từ những người Do thái theo Chúa Kitô.
Bài 9 – Quan hệ giữa Phaolô với những tông đồ và Kitô hữu khác thế nào?
Khi Phaolô đến Giêrusalem, “ông Sao-lô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ” (Cvtd 9:26).
Ngay Phaolô cũng nhận là nhiều người biết Ngài chỉ qua việc Ngài bắt bớ đạo thánh Chúa: “Nhưng lúc ấy các Hội Thánh Đức Kitô tại miền Giuđê không biết mặt tôi. Họ chỉ nghe nói rằng: Người trước đây bắt bớ chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu diệt” (Gal 1:22-23)
Đọc thư thánh Phaolô, chúng ta có thể đọc được tâm trạng của một người mang nhiều ưu tư, phải tự biện minh cho việc làm và con người mình, chỉ vì sự nghi ngờ của những người chung quanh. Trong thư gởi tín hữu Côrintô, Ngài viết:
“Tôi không tự do ư? Tôi không phải là tông đồ ư? Tôi đã không thấy Đức Giêsu, Chúa chúng ta sao? Anh em không phải là công trình của tôi trong Chúa sao? Nếu đối với những người khác tôi không phải là tông đồ, thì ít ra đối với anh em tôi là tông đồ, vì ấn tín chứng thực chức vụ tông đồ của tôi trong Chúa chính là anh em. Đây là lời biện hộ của tôi chống lại những kẻ hạch sách tôi” (1 Cor 9:1-3).
Nơi khác, Phaolô mạnh mẽ khắng định quyền năng giảng dạy của mình, và nhắc nhở cho các tín hữu rằng sứ mạng ngài lãnh nhận không từ các Tông đồ hay tự mình, nhưng trực tiếp từ Thiên Chúa (Gal 1:1, 12). Phaolô tự nhận mình bất xứng: “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa” (1 Cor 15:9).
Tất cả những dữ kiện trên cùng với lối viết thư có tính cách tự biện luận của thánh Phaolô có thể cho ta thấy một chút những đối xử của nhiều người đương thời đối với thánh nhân. Trong khi được chấp nhận và kính nể từ những cộng đoàn của dân ngoại (người Hi lạp hay Rôma) theo Chúa Kitô, Phaolô cũng gặp nhiều nghi kỵ, chống đối từ những người Do thái theo Chúa Kitô.
Bài thứ 10: Có sách ghi Phaolô là tác giả thư gởi tín hữu Do thái, sao không thấy Giáo hội nói đến?
Một số sách xưa có ghi tên Phaolô là tác giả thư gởi tín hữu Do thái, nhưng ngày này phần lớn các nhà Thánh Kinh không tin như vậy. Trong phụng vụ của Giáo hội, chúng ta để ý là các bài đọc trong thánh lễ không còn để tên Phaolô là tác giả, mà chỉ đọc: “Bài trích thư gởi tín hữu Do thái.” Việc tìm hiểu tác giả là ai đã có nhiều tranh cải từ những thế kỉ đầu tiên. Giáo phụ Origen (chừng năm 185-254) cũng đã kết luận: “Chỉ có Thiên Chúa biết tác giả thư này là ai.”
Về thời gian, các nhà nghiên cứu chắc chắn rằng thư được viết trước năm 96, vì vào năm đó, Đức Giáo Hoàng Clementê từ Roma gởi thư cho giáo đoàn Corintô có trích một đoạn trong thư gởi tín hữu Do thái này (1 Clement 17:1; 36:2-5). Ngày nay các chuyên gia chỉ đoán thư được viết vào giữa những năm 69-95. Có vài lí do đưa đến việc nhiều người nghĩ rằng Phaolô là tác gỉa thư này.
Trước hết, trong những thế kỉ đầu tiên, nhiều người giàu có hay có quyền thế trong xã hội đôi khi đọc cho người khác viết thư cho mình, hay gợi ý cho người khác viết thư thay mình và nhân danh mình. Một số tin tác giả thư này là những học trò hay một học trò (môn đệ) của Phaolô viết nhân danh Phaolô.
Thứ hai, khi sắp xếp thứ tự các thư trong sách Tân Ước, các nhà Thánh kinh ngày xưa đã đặt thư gởi tín hữu Do thái ngay sau thư gởi tín hữu Roma. Việc này làm nhiều người khi tìm hiểu bản quyền của thư gởi Do Thái đã nghĩ đến Phaolô là tác giả, vì thư này được đặt gần với thư gởi tín hữu Roma, mà tác giả thư gởi Roma là Phaolô.
Thứ ba, trong thư có một chi tiết nhỏ nhắc đến tên Timôthê (13:23), mà Timôthê là môn đệ và người đồng hành quen thuộc với Phaolô (Rom 16:21; 1 Cor 4:17). Vì thế, có người cho rằng chính Phaolô là người viết và nhắc đến tên này.
Thứ tư, vì Phaolô nổi tiếng là người viết thư hay, nội dung sâu sắc, thần học thâm thúy nên nhiều người gắn tên Ngài cho thư này vì nội dung súc tích và tính thần học thâm sâu của nó.
Những tín hữu đông phương (Ai cập và lân cận) thừa nhận Phaolô là tác gỉa thư này. Những tín hữu tây phương (Roma và lân cận) không công nhận cho đến thế kỉ thứ tư. Ngày nay, các nhà Kinh thánh không tin Phaolô là tác giả vì: (1) hình thức và cấu trúc của thư này hoàn toàn khác với những thư khác của Phaolô; (2) những danh từ dùng cũng không trùng hợp với những danh từ Phaolô thường dùng; (3) cách trình bày lá thư giống như một tiểu luận về thần học hơn là một lá thư trình bày những ý kiến hay vấn nạn muốn nói như Phaolô thường viết; và cuối cùng (4) nội dung của thư này trình bày tư tưởng mà người ta không tìm thấy trong bất cứ thư nào của Phaolô (và ngay cả những thư khác của các tông đồ trong Tân Ước), chẳng hạn tư tưởng về chức Thượng tế của Chúa Giêsu Kitô.
Về độc giả của thư, chúng ta cũng không biết chính xác là ai. Điều ta biết chắc là nội dung thư nói và trích nhiều tư tưởng thần học trong Cựu Ước. Vì thế chúng ta có lý do để tin là độc giả của thư là những người Do thái theo Kitô giáo. Những từ “thư gởi tín hữu Do thái” được các giáo phụ thêm vào cuối thế ký thứ hai, vì tự lá thư không thấy gởi cho ai một cách cụ thể. Tóm lại, chúng ta không biết ai là tác giả thư này, nhưng thư đã có ảnh hưởng lớn trong tư tưởng thần học của mọi Kitô hữu kể từ cuối thế kỷ thứ nhất.
Bài 11: Tại sao gọi Phaolô là tông đồ dân ngoại?
Câu trả lời một cách ngắn gọn là vì trong thư gởi tín hữu Galata, Phaolô đã tự nhận danh hiệu này cho mình: “Tôi đã được uỷ thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người không được cắt bì, cũng như Phêrô được uỷ thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người được cắt bì. Thật vậy, Đấng đã dùng ông Phêrô hoạt động tông đồ cho những người được cắt bì, cũng đã dùng tôi hoạt động cho dân ngoại” (Gal 2: 7-8).
Về mặt lịch sứ, bối cảnh của giáo đoàn Galata mà Phaolô viết những lời này giúp ta hiểu hơn về vai trò tông đồ dân ngoại của ông.Trong chuyến hành trình đến Galata lần thứ hai, khi còn dừng chân ở Ephêsô, Phaolô đã nghe biết một số người loan tin rằng Phaolô không phải là Tông Đồ, và sứ mạng ông rao giảng không được Chúa Kitô hay các Tông đồ trao phó (Gal 1:1, 7, 12). Hơn nữa, Phaolô rao giảng ngụy tin mừng (không là tin mừng thật) (Gal 1:7) vì ông cho phép những người theo Kitô giáo không cần phải giữ luật Môisê, như không giữ những ngày lễ ghi trong lịch Do Thái và không chịu cắt bì chẳng hạn (Gal 4:10; 6:12). Nhiều người còn vu cáo ông là người “đón gió trở cờ” hay theo cơ hội, vì có lúc ông chấp nhận phép cắt bì cho tân tòng (Gal 5:11), nay thì dạy là không cần cắt bì để nhằm có thêm nhiều tân tòng gia nhập đạo.
Những tin đồn và vu cáo này là nguyên nhân khiến Phaolô viết thư khẳng định giáo huấn thần học Ngài dạy và vai trò “Tông Đồ Dân Ngoại” của mình.Trước hết, với những người Do thái trung thành với luật Môisê mà nay tin theo Chúa Kitô, Phaolô tôn trọng những luật lệ họ giữ, và nêu rõ là Phêrô được sai đến với họ, “những người chịu cắt bì này” (Gal 2:7-8). Với những người ngoại (không chịu cắt bì như người Hy Lạp, Roma, Ai cập…), Phaolô rao giảng rằng họ không cần phải chịu cắt bì hay giữ tất cả luật Môisê khi tin theo Đức Giêsu Kitô. Quyết định này không là ý kiến cá nhân Phaolô mà kết qủa của công đồng Jerusalem trong đó thánh Giacôbê, giám mục Jerusalem, thay mặt các Tông đồ công bố (Cvtd 15:1-21).
Vì thế Phaolô đã phản bác những tuyên truyền sai lạc của những người mà Ngài gọi là “kẻ phá rối” (Gal 1:7), và khẳng định rằng Ngài là chính là Tông đồ, được sai bởi Thiên Chúa, và tin mừng Ngài rao giảng được Thiên Chúa mặc khải qua Đức Giêsu Kitô (Gal 1:1, 12). Và với tính khẳng khái, Phaolô công bố rằng tin mừng Ngài nhận là từ Thiên Chúa chứ không phải từ loài người. Do đó, nếu có ai đến rao giảng những gì nghịch lại với tin mừng Ngài dạy, ngay cả các tông đồ hay các thiên thần từ trời xuống, Phaolô cảnh báo giáo dân không được tin theo (Gal 1:8-9). Câu hỏi đặt ra là: khi xưng mình là tông đồ dân ngoại, Phaolô có từ bỏ căn tính Do thái của mình để theo người ngoại hay không?
Có hai trường phái cắt nghĩa khác nhau. Một số người cho rằng Phaolô đã bỏ quyền ưu tiên làm người Do thái để lãnh nhận căn tính Kitô hữu có tính cách rộng lớn và bao quát hơn. Những người này còn cho là Phaolô đã nhiều lần phê bình chủ nghĩa độc tôn Do thái khi cho rằng dân tộc Do Thái là trên hết, và chỉ có người Do thái mới được Cứu rỗi. Một số đông hơn ngày nay tin rằng Phaolô không hề từ chối căn tính Do thái để mặc lấy căn tính Kitô hữu vì tính phổ quát của nó vì những lí do: (1) thời kỳ đó (những năm 50-60), Phaolô không rao giảng Kitô giáo như một tôn giáo mới tách hẳn ra khỏi Do thái giáo; (2) Phaolô không hề từ chối căn tính Do thái của mình mà còn tự hào và nhắc nhở các Tông đồ: “Chúng ta bẩm sinh là người Do-thái, chứ không phải hạng người tội lỗi gốc dân ngoại.” (Gal 2:15); hay “chính tôi đây cũng là người Israel thuộc dòng dõi Ápraham, thuộc chi tộc Bengiamin.” (Rom. 11:1).
Tư tưởng Phaolô thay đổi theo cuộc sống. Khi còn bắt bớ đạo Chúa Kitô, Phaolô tin rằng chỉ có người Do Thái tin và làm theo Ngũ Thư (Luật Môisê) mới được cứu rỗi, còn dân ngoại sống không có hi vọng trong tương lai.
Sau khi Trở Lại, Phaolô tin Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Thế cho người Do thái cũng như dân ngoại. Giờ đây Đức Kitô, chứ không phải Ngũ Thư, là đối tượng đức tin và việc làm cho mọi người dân thuộc về Thiên Chúa. Với tư tưởng này Phaolô tự nhận mình là Tồng Đồ Dân Ngoại khi Ngài rao giảng cho mọi người biết Đức Kitô đến để được cứu rỗi loài người. Hơn nữa, công việc rao giảng có tính cách cấp bách vì Ngài (cũng như nhiều người đương thời) tin rằng Chúa Kitô sắp đến lần thứ hai (hay tận thế gần kề) (1 Thes 4:16-17).
Bài 12: Thánh Phaolô là người Do Thái, làm sao có thể là công dân Roma?
Ta biết được cuộc đời thánh Phaolô qua sách Công Vụ Tông Đồ và những thư Ngài viết cho các tín hữu trong thời kì đầu tiên của giáo hội. Nhiều chi tiết trong đời sống của Phaolô (chẳng hạn quyền công dân Roma) được sách Công Vụ Tông Đồ kể lại, nhưng không thấy Phaolô nhắc đến trong những thư Ngài gởi cho các tín hữu, dù Ngài có nói đến công dân “nước trời’ trong thư gởi tín hữu Philiphê (Phil 3:20).
Sách Công Vụ Tông Đồ cho ta biết là Phaolô có quyền công dân Roma khi sinh ra, không phải là người trở nên công dân Roma khi đã lớn:
“Họ vừa nọc ông Phaolô ra để đánh đòn, thì ông nói với viên đại đội trưởng đứng gần đó: “Một công dân Rôma chưa được xét xử, các ông có được phép đánh đòn không?” Nghe vậy, viên đại đội trưởng đi báo cáo cho vị chỉ huy rằng: “Ông định làm gì bây giờ? Đương sự là công dân Rôma!” Vị chỉ huy liền đến gặp ông Phaolô và hỏi: “Ông nói cho tôi biết: ông là công dân Rôma sao?” Ông Phao-lô trả lời: “Phải.” Vị chỉ huy nói tiếp: “Tôi đây, tôi phải tốn bao nhiêu tiền của mới mua được quyền công dân ấy.” Ông Phaolô đáp: “Còn tôi, sinh ra đã có quyền ấy rồi.” Lập tức những người sắp tra tấn ông rút lui, còn vị chỉ huy thì phát sợ, vì biết rằng ông Phaolô là công dân Rôma mà mình lại đã còng ông ấy (Cvtđ 22:25-29; xem thêm 23:27 và 16:37).
Công dân Roma là một quyền ưu tiên chỉ dành cho những người sinh ra bởi cha mẹ có công dân Roma trong đất nước của hoàng đế Roma cai trị, hay những ngoại kiều có công trạng với Roma. Chúng ta không biết tại sao và làm thế nào gia đình Phaolô có được quyền ưu tiên này. Tuy nhiên, trong lịch sử ghi lại là một số các tướng lãnh nổi tiếng của Roma như Julius Caesar và Mark Anthony đã ghé thăm Tarsus, nơi Phaolô sinh ra. Theo Thánh kinh ta biết Phaolô làm nghề dệt lều (Cvtđ 18:3). Công việc này giúp Phaolô kiếm tiền trên đường đi truyền giáo mà không phải là gánh nặng về kinh tế cho những cộng đoàn Ngài đến thăm (1 Cor 9:18), và gặp sự giúp đỡ của những đồng nghiệp, nhất là hai vợ chồng Aquila và Pricilla (Cvtđ 18:1-3).
Sống trong vùng Trung Đông, lều là một phương tiện cần thiết cho đời sống của những du mục và dân định cư điạ phương. Có lối giải thích rằng khi lính Roma đóng quân trong khu vực Tarsus, gia đình Phaolô có thể đã cung cấp lều như quân cụ cho quân đội. Vì thế, khi những tướng lãnh đến thăm vùng này, gia đình nhận được sự chú ý của tướng Roma nên được ưu đãi quốc tịch Roma hay được sự tưởng thưởng của hoàng đế Augustus về những đóng góp này.
Đây chỉ là những lối giải thích phỏng đoán. Điều ta biết chắc là Phaolô sinh ra trong gia đình Do Thái, thuộc chi tộc Benjamin (Rom 11:1; Phil 3:5; 2 Cor 11:22). Trong xã hội, ông được nhiều ưu tiên hơn đồng bạn, như được học với thầy Gamaliel nổi tiếng thời bấy giờ (Cvtđ 22:3), và sau này được tin tưởng cắt cử làm người dẫn đầu đi bắt bớ Kitô hữu (Cvtđ 9:1-2).
Việc thánh nhân làm thế nào mà có quyền công dân Roma từ khi mới sinh thì không ai biết rõ, nhưng chính nhờ có quyền này mà Phaolô không bị đối xử tàn tệ như những ngoại kiều (Cvtđ 23:27), và theo truyền thuyết, Phaolô bị chặt đầu (hình phạt dành cho công dân Roma) chứ không bị hành hạ và đóng đinh (như Phêrô là người Do Thái).
Bài 13: Phaolô có vợ con gì không?
Trong Thánh kinh và cả những sử liệu bên ngoài không thấy nói đến vợ và con của thánh Phaolô. Có người cho là Phaolô đã có gia đình nhưng có thể vợ chết, hoặc li dị vợ nên sống đời độc thân. Không có tài liệu chính xác nào nói đến những đồn đãi này, ngoại trừ người ta biết chắc là sau khi trở lại, Phaolô sống như một người độc thân.Căn cứ vào những thư thánh Phaolô viết, lời giải thích rằng Phaolô không có vợ-con đáng tin cậy hơn là những giải thích ngược lại. Có nhiều lí do để ta tin là Phaolô không có gia đình.
Trước hết, trong những thư gởi tín hữu Roma, Galata, Ephêsô và nhất là Corintô, thánh Phaolô nói đến vai trò phụ nữ nhiều lần nên không thể nào không nhắc đến vợ con, nếu có.
Thứ hai, khi nói đến đời sống gia đình, Phaolô nhấn mạnh đến sự trung thành vợ chồng “… tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng… và chồng cũng không được rẫy vợ” (1 Cor 7: 10-12). Vì thế, không có lí do gì để ta tin rằng Phaolô li dị vợ hay bỏ gia đình để đi làm việc mục vụ cho Giáo hội vì nghịch lại những gì Ngài dạy.
Thứ ba, trong thư thứ nhất Corintô Phaolô nói: “Tôi ước muốn mọi người đều như tôi; nhưng mỗi người được Thiên Chúa ban cho đặc sủng riêng, kẻ thế này, người thế khác. Với những người độc thân và quả phụ, tôi nói thế này: họ cứ ở vậy như tôi thì tốt cho họ” (1 Cor 7:7-8). Đoạn kinh thánh này thuyết phục nhiều người tin rằng Phaolô là một người độc thân, không lập gia đình.
Với những người tin rằng Phaolô đã có gia đình, họ căn cứ vào thư thứ nhất Corintô: “Phải chăng tôi không có quyền ăn uống, không có quyền đem theo một người chị em tín hữu như các tông đồ khác, như các anh em của Chúa và như ông Kêpha?” (1 Cor 9:4-5). Thật ra, đây không là một bằng chứng rõ đủ để nói lên Phaolô là người có gia đình. Có thể câu này được dùng để biện minh về quyền có gia đình thì đúng hơn, nghĩa là, Phaolô cũng như bao người khác có quyền lập gia đình, và nếu có gia đình thì họ có quyền đem theo vợ trong khi làm công việc mục vụ như Phêrô hay các tông đồ khác.Thứ hai, những người này cho rằng việc Phaolô không có vợ là một chuyện lạ trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, vì người Do Thái xem việc lập gia đình và có con cái như một ơn lành của Thiên Chúa ban thưởng, ngay cả đây là mệnh lệnh Thiên Chúa yêu cầu ông bà Adong Evà trong đời sống: “hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất…” (Sáng Thế 1:28). Tuy nhiên, họ quên rằng chuyện lạ không có nghĩa là không xảy ra (như Chúa Giêsu cũng không lập gia đình).
Cuối cùng một số Kitô hữu vào thế kỉ 3-4 tin là Phaolô đã có gia đình, vì họ căn cứ vào câu nói trong thư gởi tín hữu Philiphê “Tôi xin cả anh Xidigot nữa, người bạn chân thành đã đồng lao cộng khổ với tôi, xin anh giúp đỡ các chị ấy. Các chị đã giúp tôi chiến đấu cho Tin Mừng, cũng như anh Clementê và các cộng sự viên khác mà tên tuổi đã được ghi trong Sổ Trường Sinh” (Phil 4:3). Thật ra, đây là bằng chứng yếu kém nhất trong việc thuyết phục để tin là Phaolô có vợ.
Dù không biết chắc chắn về vợ con thánh nhân, ta biết thánh nhân nhắc đến bà con Ngài một vài lần, có người trở thành Kitô hữu trưóc Ngài, và có người ở trong tù với Ngài (Rom 16:7).Sách Công Vụ Tông Đô nhắc đến một người chị của thánh Phaolô ở Jerusalem, và con trai của bà. Người cháu này có lẽ có chức vị trong xã hội nên đã có điều kiện biết chuyện nội bộ và báo tin cho Phaolô hay rằng các vị trong Thượng Hội Đồng đang lập mưu để giết Phaolô: “Nhưng người con trai của bà chị ông Phaolô nghe biết âm mưu đó, liền đến đồn và vào báo tin cho ông Phaolô (Cvtđ 23:16).
Thánh Phaolô bắt bớ Kitô hữu khi nào, và tại sao?
Còn Tiếp...!
|
|