|
(tiếp...)
7
THIÊN CHÚA CỨU ĐỘ
Thiên Chúa phạt đứa con yêu dấu nhưng rồi Ngài cũng cứu thoát và vì vậy vị ngôn sứ này đã dâng lời tạ ơn chân thành:
“Ngày đó, bạn sẽ nói:
Lạy Đức Chúa, con dâng lời cảm tạ:
Ngài đã từng thịnh nộ với con,
nhưng giờ đây cơn giận đã nguôi rồi,
và Ngài lại ban niềm an ủi.
Đây chính là Thiên Chúa cứu độ,
tôi tin tưởng và không sợ hãi,
bởi vì Thiên Chúa là sức mạnh tôi,
là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (12,1-2).
Có sợi chỉ của một niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa, Đấng trung thành xuyên suốt sách Isaia. Các ngôn sứ không bao giờ nghi ngờ điều đó, cho dù Israel có đau khổ lớn cỡ nào, thì cũng có một ngày Thiên Chúa can thiệp cứu thoát con người và mở ra một cùng đích cho thời đại đau khổ của họ:
“Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần.
Đức Chúa là Chúa thượng sẽ lau khô dòng lệ
trên khuôn mặt mọi người,
và trên toàn cõi đất, Người sẽ xóa sạch
nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy.
Ngày ấy, người ta sẽ nói:
Đây là Thiên Chúa chúng ta,
chúng ta từng trông đợi Người,
và đã được Người thương cứu độ.
Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông.
Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng
bởi được Người cứu độ” (25,8-9).
Đấng công bình đã đánh phạt họ, nhưng cũng là Đấng chữa lành họ; “Vào ngày Đức Chúa băng bó vết thương cho dân Người, và chữa lành những chỗ nó bị đánh, ánh sáng mặt trăng sẽ nên như ánh sáng mặt trời, và ánh sáng mặt trời sẽ tăng gấp bảy - ánh sáng của bảy ngày” (30,26). Dẫu họ quay lưng với Thiên Chúa nhưng Ngài vẫn xót thương mời gọi họ:
“Ta sẽ làm cho tội của ngươi tan ra như làn mây khói,
lỗi của ngươi biến mất tựa áng mây.
Hãy trở lại cùng Ta,
vì Ta là Đấng cứu chuộc ngươi” (44,22).
Israel luôn luôn tin tưởng rằng Thiên Chúa đã kêu gọi họ đi vào mối tình, đã ban cho họ đất hứa, Ngài sẽ không khước từ họ, cho dù họ có tội lỗi. Isaia I tuyên bố cách xác quyết rằng: “Thật vậy, Đức Chúa sẽ chạnh thương Gia-cóp và sẽ lại chọn Israel, Người sẽ cho họ định cư trên đất của họ. Người ngoại bang sẽ gắn bó với họ và sẽ kết nghĩa với nhà Gia-cóp” (14,1). Niềm tin này được lặp lại trong Isaia II, ngài tuyên bố một cách chắc chắn lời Thiên Chúa dành cho Israel:
“Vì Ta, Đức Chúa, là Thiên Chúa của ngươi,
Đấng cầm lấy tay phải ngươi và phán bảo:
Đừng sợ, chính Ta phù trợ ngươi” (41,13).
Sự kiện cứu độ thuộc quá khứ Israel được nhắc lại như những chứng cớ chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ luôn luôn cứu thoát Israel khỏi áp bức và lưu đày. Isaia I nhắc lại cho dân biết rằng Thiên Chúa của họ là “Đấng đã giải thoát Abraham” (29,11), và ngài đặt trước họ mẫu gương giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập:
“Người sẽ phất cờ hiệu cho các dân tộc,
và từ bốn phương thiên hạ,
sẽ quy tụ những người Israel biệt xứ,
sẽ tập họp những người Giuđa bị phân tán” (11,12).
“Và sẽ có một con lộ cho phần sống sót của dân Người,
phần sống sót ở Át-sua,
như xưa đã có một con lộ cho Israel,
ngày họ từ đất Ai-cập đi lên” (11,16).
Thiên Chúa bảo đảm trong Isaia rằng họ sẽ được giải thoát khỏi bị hủy diệt như Nô-ê đã được cứu khỏi đại hồng thủy:
“Ta cũng sẽ làm như thời Nô-ê:
lúc đó, Ta đã thề rằng
hồng thủy sẽ không tràn ngập mặt đất nữa,
cũng vậy, nay Ta thề sẽ không còn nổi giận
và hăm dọa ngươi đâu” (54,9).
Vì sự trung thành của Thiên Chúa được bày tỏ trong lịch sử quá khứ của họ và vẫn còn tiếp tục:
“Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay,
tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi,
giao ước hòa bình của Ta cũng chẳng chuyển lay,
Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy” (54,10).
Sự xác tín này vào lòng thương xót thiêng liêng xuất phát từ sự hiểu biết của các ngôn sứ về bản tính của Thiên Chúa, Đấng mà họ tín thác. Niềm hy vọng của họ được đặt trên nền tảng sự kiện mà họ có thể nói về Thiên Chúa này:
“Quả thật, Ngài là chốn dung thân cho người hèn yếu,
là nơi nương náu cho kẻ khó nghèo
khi gặp bước gian truân.
Ngài là nơi trú ẩn trong cơn bão táp,
là bóng mát giữa buổi nắng thiêu,
vì sát khí của quân cường bạo
chẳng khác nào mưa bão đập vào tường.
Như nắng thiêu trên đất khô cằn,
Ngài chế ngự tiếng ồn ào náo động của lũ ngoại bang.
Như bóng mây ngăn sức nắng thiêu,
Ngài dập tắt những lời ca tiếng hát của quân bạo cường” (25,4-5).
PHÉP LẠ CỨU ĐỘ
Khi Thiên Chúa cứu thoát Israel thì ơn cứu độ của họ sẽ là một sự kiện phi thường. Tất cả những giới hạn thế gian sẽ được siêu nhiên hóa:
“Bấy giờ mắt người mù mở ra,
tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu” (35,5-6).
Không có gì trong thế gian này có thể hại được họ vì họ được bao bọc trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi họ đích danh:
“Nhưng bây giờ, đây là lời Đức Chúa phán,
lời của Đấng tạo thành ngươi, hỡi Gia-cóp,
lời của Đấng nắn ra ngươi, hỡi Israel:
Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về,
đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi:
ngươi là của riêng Ta!
Ngươi có băng qua nước, Ta sẽ ở cùng ngươi,
ngươi có vượt qua sông, cũng không bị nước cuốn;
ngươi có đi trong lửa, cũng chẳng hề hấn gì,
ngọn lửa không thiêu rụi ngươi đâu.
Vì chính Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi thờ,
là Đức Thánh của Israel, Đấng cứu độ ngươi.
Ta đã thí Ai-cập làm giá chuộc ngươi về,
nộp Cút và Xơ-va để đổi lấy ngươi” (43,1-3).
Họ sẽ được biến đổi tận căn như Isaia I loan báo:
“Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.
Miền nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước trào ra.
Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên” (35,6-7).
Sự biến đổi tận căn này là một chủ đề chung của ngôn sứ, là dấu chỉ cuộc trở về phúc lành thiêng liêng dành cho dân Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ cũng có thể biến đổi nó theo ý mình. Một trong những diễn tả nỗ lực nhất của niềm tin này được tìm thấy trong những lời cởi mở của Isaia II.
Ở đây vị ngôn sứ được sai đến an ủi dân trong cảnh lưu đày Babylon và ngài đặt trước mắt họ một bức tranh ơn cứu chuộc mà họ được bảo đảm:
“Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy,
mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống,
nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng,
chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (40,4).
Điều được tiên báo ở đây là một hành động sáng tạo mới do Đấng mà họ biết đến như Đấng Sáng Tạo hoàn vũ. Vị ngôn sứ nhắc lại cho dân phép lạ rẽ biển, họ được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập và kẻ thù của họ đã bị hủy diệt:
“Đây là lời Đức Chúa, Đấng cứu chuộc các ngươi,
Đức Thánh đã vạch một con đường giữa đại dương,
một lối đi giữa sóng nước oai hùng,
Đấng đã cho xuất trận
nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnh binh hùng:
tất cả đã nằm xuống, và không còn trỗi dậy,
đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn” (43,16-17).
Tuy nhiên hành động cứu độ mới này sẽ vĩ đại hơn bất cứ điều gì đã được thực hiện trước đây. Thiên Chúa nói với họ qua Isaia II:
“Người phán như sau:
Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa,
chớ quan tâm về những việc thuở trước.
Này Ta sắp làm một việc mới,
việc đó manh nha rồi,
các ngươi không nhận thấy hay sao?
Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc,
khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn” (43,18-19).
Điều này được lặp lại trong thị kiến của Isaia III:
“Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,
không còn ai nhớ đến thuở ban đầu
và nhắc lại trong tâm trí nữa.
Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan
vì những gì chính Ta sáng tạo.
Phải, này đây Ta sẽ tạo Giêrusalem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng” (65,17-18).
Tất cả công trình sáng tạo sẽ phủ phục khi biết phúc lành Thiên Chúa dành cho Israel:
“Loài dã thú, chó rừng và đà điểu, đều sẽ tôn vinh Ta;
vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc,
khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn,
cho dân Ta tuyển chọn được giải khát” (43,20).
Không phải tình cờ mà ơn cứu độ rất nhiều lần được các ngôn sứ diễn tả bằng những thuật ngữ ơn ban của nước. Israel là một vùng đất, nơi đó cũng giống như đất nước Australia, tình trạng khô hạn và cằn cỗi của sa mạc luôn luôn đe dọa đối với sinh hoạt và ngay cả sự sinh tồn của họ nữa. Trong một miền đất như thế quả thật nước là một tặng ân của sự sống.
ÁN PHẠT CỦA KẺ THÙ ISRAEL
Các ngôn sứ tin tưởng rằng Thiên Chúa không chỉ cứu dân khỏi áp bức, mà còn chứng minh đau khổ của họ là do án phạt của những kẻ ngược đãi Israel. Để sự giải thoát của họ được hoàn thành, thì sự công bằng phải được nhìn nhận trong hoạt động của vận mệnh kẻ thù họ. Isaia I khẳng định với dân rằng quyền lực của kẻ thù họ là Assiri sẽ không thể đứng vững trước quyền năng của Thiên Chúa: “Nhưng đến khi Chúa Thượng đã hoàn thành mọi việc Người làm trên núi Si-on và tại Giêrusalem, Người phán: Ta sẽ trừng phạt hậu quả lòng tự đại của vua Át-sua và con mắt kiêu căng ngạo nghễ của nó” (10,12). Rồi bản văn ra đời trong một thời điểm khi Babylon là một trong những quyền lực vĩ đại nhất thuộc thế giới cổ đại, thế mà đã được tiên báo là sẽ bị sụp đổ:
“Tới ngày Đức Chúa cho ngươi được an cư lạc nghiệp, hết phải khổ đau, thoát cảnh ba đào và không còn phải gánh chịu cảnh lao động nặng nhọc nữa, lúc đó ngươi sẽ cất lên lời ví von châm chọc vua Babylon như sau:
Chẳng lẽ kẻ hà hiếp đã tàn đời,
trò khủng bố của y đã chấm dứt rồi sao?
Đức Chúa đã bẻ gãy ngọn roi của phường gian ác
và cây gậy của những kẻ thống trị,
kẻ nổi lôi đình đánh đập các dân, đánh đập không ngừng,
kẻ nổi cơn thịnh nộ thống trị các nước,
rượt đuổi hoài không chút xót thương” (14,3-6).
Trong Isaia III, những người trở về từ cuộc lưu đày được bảo đảm rằng họ sẽ được báo thù:
“Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc,
thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh.
Đức Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người
cho các tôi tớ biết,
và nổi cơn thịnh nộ với các kẻ thù.
Vì này đây Đức Chúa ngự đến trong lửa,
xa giá của Người như thể cuồng phong,
để trút cơn giận trong trận lôi đình,
và lời đe dọa trong ngọn lửa thiêu” (66,14-15).
Vì lòng ghen tương của Thiên Chúa đối với thái độ biện hộ của Israel là vô hạn.
Niềm tín thác của các ngôn sứ vào Thiên Chúa Đấng cứu thoát, có thể cũng là một nguồn mạch hy vọng đối với chúng ta. Cũng như Israel, chúng ta cần một niềm tin để giữ sự xác tín những lúc khốn cùng và đau khổ. Chúng ta cũng có thể gợi nhớ những giây phút trong quá khứ khi chúng ta chứng kiến sự trung thành của Thiên Chúa và tin tưởng rằng Đấng đã mời gọi chúng ta đi vào một mối tương quan thân tình, sẽ luôn luôn có đó khi chúng ta cần. Điều sách Isaia bảo đảm cho chúng ta là sẽ không còn giới hạn đối với tình thương và lòng từ bi thiêng liêng, và có thể biến đổi thế giới chúng ta.
Câu hỏi
1. Thiên Chúa trung thành với Israel. Có bao giờ bạn cảm nghiệm sự trung thành của Thiên Chúa dành cho bạn?
2. Bạn có thể cho một mẫu gương đời sống riêng của bạn về sự biến đổi quyền năng do lòng từ bi xót thương của Thiên Chúa?
3. Bạn nghĩ khác biệt nào tạo nên đời sống con người nếu họ thực sự tin rằng Thiên Chúa hoàn toàn tha thứ và xót thương?
8
ĐẤNG CỨU CHUỘC VÀ TÔI TỚ
THIÊN CHÚA SAI ĐẤNG CỨU TINH
Đấng cứu chuộc Israel thường được các ngôn sứ diễn tả như sự kết nối với dự phóng do Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Điều này thường được nhìn nhận như một người nối dòng dõi vua Đavit, người đã khôi phục vương quốc Israel với quyền lực và vinh quang ngày xưa. Một số nổi bật nhất trong những lời tiên tri này được tìm thấy nơi Israel I. Chúng ta tìm thấy trong chương 9 một lời loan báo mang niềm hy vọng rằng Thiên Chúa ban một người mới sẽ thừa kế ngai vàng vua Đavit:
“Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavit. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh. Chúa Thượng đã gửi một lời đến Gia-cóp, lời ấy rơi xuống Israel” (9,6-7).
Lời kinh với những danh hiệu cao quý đối với con cái là một lời cầu nguyện sốt sắng dành cho một triều đại vinh quang, vinh quang ấy sẽ thành toàn niềm hy vọng dân tộc: bình an và hợp nhất.
Còn trong chương 11 thì vị ngôn sứ bảo đảm với dân rằng dòng dõi quyền quý sẽ tồn tại trước đe dọa của đế chế Assiri và sẽ phát sinh một vị vua có khả năng làm cho dân tộc được an khang thịnh vượng. Khởi đầu bằng sự diễn tả những thuộc tính của vị vua tương lai được dùng như niềm hy vọng nền tảng tràn trề những danh hiệu cao quý từ con đường trước kia:
“Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” (11,2).
Và tiếp tục diễn tả về bản chất quy luật của vị vua ấy:
“Xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh đỡ kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở” (11,4).
Đối với dân Israel ngày xưa, vua là vị đại diện cho Thiên Chúa ở dưới đất này và là máng thông ơn phúc lành của Thiên Chúa cho dân. Do đó, thật là cần thiết khi vị vua quang toả những thuộc tính thiêng liêng của đức khôn ngoan, công bình và lòng nhân hậu. Cũng như Thiên Chúa đã bảo vệ những thành phần yếu đuối và bất lực trong xã hội, thì vị vua cũng phải làm như thế. Bởi vậy, chỉ có phúc lành của Thiên Chúa mới có khả năng làm cho toàn thể dân tộc được xuôi thuận. Thế rồi tiếp theo một thời đại an khang thịnh vượng mà vị ngôn sứ mô tả một cách sống động như một sự đổ vỡ của những thế lực tự nhiên và thoát khỏi hiểm nguy:
“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang” (11,6-8).
Vị ngôn sứ nhắc lại niềm tin của mình rằng Thiên Chúa sẽ gửi tới cho Israel một vị lập pháp công chính và đạo đức, ngài xác tín với họ rằng thời gian thử thách của họ sẽ sớm chấm dứt. Đó là toàn bộ thị kiến cứu chuộc của Isaia I và sẽ là dấu chỉ tình yêu, đồng thời là sự trung thành miên trường của Thiên Chúa:
“Xin cho những người Mô-ap bị xua đuổi được trú ngụ bên quý quốc, xin nên chỗ cho họ ẩn thân tránh người tàn phá, vì khi kẻ áp bức lìa đời, lúc cơn tàn phá chấm dứt và kẻ giày xéo xứ sở biến đi, thì ngai báu sẽ được vững bền nhờ lòng nhân nghĩa. Trong lều vua Đavít, một vị thẩm phán sẽ ngự trên ngai nhờ đức tín thành. Vị ấy lo tìm kiếm điều chính trực, và mau mắn thực hiện lẽ công minh” (16,4-5).
TÔI TRUNG
Chúng ta tìm thấy trong Isaia II nhiều con đường như lặp lại xác tín này, rằng Thiên Chúa sẽ sai một Đấng cứu tinh đến trần gian. Tất cả được biết đến trong bài ca Tôi Trung, họ diễn tả về một nhân vật là tôi trung của Đức Chúa, người được sai đến để chữa lành và cứu chuộc Israel. Trong bài ca thứ nhất Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân Người như sau:
“Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và hết lòng quý mến, Ta cho thần khí Ta ngự trên người; người sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân” (42,1).
Đây là một lời tuyên bố công khai về sự tuyển chọn của Thiên Chúa dành cho một người sẽ là khí cụ của đức công bình thiêng liêng mặc dù được Thiên Chúa quyền năng xức dầu nhưng người được Thiên Chúa tuyển chọn cũng phải công bố ý Thiên Chúa với lòng nhân hậu và xót thương chứ không phải dùng quyền lực của mình:
“Người sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng trước phố phường. Cây lau bị giập người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Người sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý” (42,2-3).
Trong đường hướng này, ngài sẽ thực thi công trình của Thiên Chúa bằng việc cứu thoát và soi sáng cho Israel:
“Người phán thế này: Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù lòa, đưa ra khỏi tù những ai bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (42,6-7).
Số phận của người tôi trung được Thiên Chúa tuyển chọn đã là dự phóng của Thiên Chúa ngay từ khởi đầu:
“Hỡi các đảo, hãy nghe đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý: Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi” (49,1).
Ngài phục hồi vận may của Israel và lập lại tương quan với Đức Chúa:
“Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Israel xung quanh Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi. Người phán: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (49,5-6).
Ngài giáo dục và củng cố dân: “Đức Chúa là Chúa thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ” (50,4).
Điều giúp chúng ta nỗ lực phi thường là lời tiên báo rằng người tôi trung sẽ phải chịu đau khổ lớn lao để kiện toàn thánh ý Thiên Chúa. Ngài thổ lộ như sau:
“Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (50,6).
Đây không phải là phác họa truyền thống về một trong những vị anh hùng vĩ đại của dân tộc Israel. Đây là một con đường dài khởi đi từ tư tưởng hy vọng về đấng thừa kế dòng dõi vua Đavit mà chúng ta bắt gặp trong Isaia I. Sẽ không còn một vị vua vinh quang, cai trị bằng quyền lực và sức mạnh, trái lại:
“Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước nhan thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì để chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi không đếm xỉa tới” (53,2-3).
Con người này không có gì lôi cuốn nguời khác, và thực tế ngài còn bị mọi người khinh miệt và xa lánh.
Có nhiều mẫu gương trong Kinh Thánh Do Thái nói về đấng được Thiên Chúa xức dầu phải chịu đau khổ vì đảm nhận vai trò trung gian đem lời Thiên Chúa đến cho dân Israel. Cụ thể như ngôn sứ Giêrêmia kêu than trong đắng cay rằng:
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con” (Gr 20,7).
Không giống như những sự phản kháng của Giê-rê-mi-a, người tôi tớ trong Isaia sẽ chấp nhận đau khổ trong thầm lặng tuân phục:
“Bị ngược đãi người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (53,7).
Do tuân phục thầm lặng như vậy cho nên ngài sẽ hoàn thành ý muốn của Thiên Chúa ngay cả qua cái chết:
“Người đã bị ức hiếp, buộc tội rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người ai nào nghĩ tới? Người đã bị khai trừ ra khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt” (53,8).
Rõ ràng đau khổ của người tôi tớ không vô ích. Quan niệm truyền thống về một nhân vật như thế trong thế giới cổ đại được giải thích như sau: ngài bị Thiên Chúa làm cho đau khổ do tội lỗi và do đó, đau khổ ngài phải chịu là xứng đáng. Nhưng quan niệm chính thống này trong Isaia được khơi lên trước hết và đau khổ của người tôi tớ được ký thác cho một ý nghĩa khác đặc biệt. Ngài đứng trước dân như một vị đại diện để mang lấy tội lỗi và chịu đựng sự trừng phạt dành cho dân khi họ rời bỏ Thiên Chúa:
“Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngã. Nhưng Đức Chúa sẽ đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta” (53,6).
Hình ảnh được sử dụng ở đây là con vật truyền thống trong thế giới cổ. Cộng đồng sẽ dùng các con vật thay thế cho tội lỗi và bất hạnh của họ suốt một năm, rồi thả nó vào hoang địa, do đó họ sẽ được giải thoát và được phục hồi hoàn toàn đối với cộng đồng trong năm mới.
Dân Chúa kêu lên trong ngạc nhiên: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lành” (53,4-5).
Họ sẽ biết rằng con người mà họ khinh miệt, xa lánh sẽ trở thành nguồn mạch giúp họ được giải thoát một cách rất huyền nhiệm. Người tôi tớ đứng đó như trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Để rồi qua quyền năng biến đổi của Thiên Chúa, sự yếu đuối và đau khổ sẽ trở thành một con đường đưa tới lòng từ bi và sự chữa lành thiêng liêng, tất cả trào tràn trên dân tộc:
“Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội ” (53,5).
Tuy nhiên có một đảm bảo rằng đau khổ của người tôi tớ sẽ chấm dứt. Đến thời viên mãn, ngài sẽ được Thiên Chúa biện hộ:
“Vì thế, Ta sẽ ban cho người muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, người sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì người đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thật ra người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (53,12).
Đã có rất nhiều cuộc tranh luận giữa các học giả về sự đồng hoá nhân vật tôi tớ chịu nhiều đau khổ trong sách Isaia. Một số người tin rằng nhân vật ấy chính là Isaia II, ngài phải chịu đau khổ trong cuộc lưu đày, dù vậy ngài vẫn tiếp tục thi hành ý Thiên Chúa để truyền đạt dự phóng thiêng liêng về ơn cứu độ sau cùng dành cho Israel. Một số khác lại nhận thức người tôi tớ ấy trong niềm hy vọng một vị vua lý tưởng xuất thân từ nhà Đavit. Điều khả thi nhất chúng ta có ở đây là một hình ảnh loại suy về cộng đồng Israel lưu đày: tội lỗi, đau khổ và số phận của họ được giải thích qua hình tượng một con người cá biệt. Những cuộc lưu đày có thể được nhìn nhận như đau khổ họ phải chịu do tội lỗi toàn thể dân tộc, bởi họ đã quay lưng lại với Thiên Chúa. Nhưng như người tôi tớ, đau khổ của họ sẽ đưa đến sự khôi phục Israel và họ sẽ được bênh đỡ như những khí cụ do dự phóng cứu độ của Thiên Chúa.
Các kitô hữu ngày xưa nhận thức hình ảnh đầy thi vị về người tôi tớ Thiên Chúa trong Isaia, ngài phải chịu đau khổ cho đến chết, nhưng cuối cùng cũng được Thiên Chúa bênh đỡ và làm cho vinh quang, một mẫu mực thích hợp với Chúa Giêsu. Cũng như người tôi tớ chịu đau khổ, Chúa Giêsu cũng đã chịu đau khổ và chịu chết trong thầm lặng kiên nhẫn để vâng phục ý muốn của Đấng đã sai Ngài. Nhờ phục sinh, Ngài cũng đã chiến thắng những kẻ đã ngược đãi Ngài. Hội Thánh đến để chiêm ngưỡng một Chúa Giêsu tự hiến mình chịu đau khổ vì tội lỗi của tất cả chúng ta giống như người tôi trung đại diện cho những người yếu đuối của Israel. Bởi thế, chúng ta tiếp tục dùng những lời của Isaia để suy niệm số mệnh của Israel, từ đó quy chiếu ý nghĩa về Chúa Giêsu đối với đời sống của chúng ta.
Câu hỏi
1. Có bao giờ bạn cảm nhận được trong những lúc khó khăn Thiên Chúa đã dùng ai đó để giúp bạn?
2. Bạn hãy kể về một người mà bạn biết đã từng chịu đau khổ và đau khổ của người ấy mang lại tự do cho người khác?
3. Phải chăng bạn tìm thấy một cách thức hữu ích nơi hình ảnh người tôi trung chịu đau khổ trong Isaia khả dĩ quy chiếu ý nghĩa về Chúa Giêsu dành cho chúng ta hôm nay?
9
THIÊN CHÚA BAN PHÚC LÀNH
Chúng ta đã để tâm đến xác quyết của các ngôn sứ rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với Israel. Dù tội lỗi dân có trầm trọng tới đâu, thì họ vẫn không bao giờ nao núng niềm tin của mình rằng Thiên Chúa sẽ giải cứu và khôi phục mối tình thiêng liêng cho họ. Nhờ phục hồi mối tình với Thiên Chúa mà họ được hứa ban phúc lành. Một trong những điều quan trọng nhất là trở về quê hương trước đây đã được hứa cho Israel qua tổ phụ Abraham và Môsê.
Cũng nên nhắc lại rằng các lời tiên báo của Isaia I và II đều cho biết về thực tại lưu đày. Isaia I đã nhìn thấy cuộc hủy diệt vương quốc miền Bắc và hàng ngàn người dân phải rơi vào tay Assiri. Isaia II biết đau khổ mà con cái Israel phải chịu trong cuộc lưu đày Babylon. Đối với các dân tộc xâm lược trong thế giới cổ đại, việc bắt các dân tộc khác đi lưu đày là bình thường. Các ngôn sứ an ủi dân rằng: nếu như số phận của họ bị diệt trừ và buộc phải sống giữa dân xa lạ thì một ngày kia họ sẽ được trở về quê hương và vì thế chúng ta đã tìm thấy rất nhiều lời tiên báo mang tính an ủi và tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ quy tụ họ về từ tận cùng trái đất và đưa họ về miền đất dành riêng cho họ. Isaia I an ủi dân đang sợ hãi rằng dù có xa thế nào thì họ vẫn có khả năng quy tụ, ngày ấy sẽ đến khi Thiên Chúa muốn, không còn nghi ngờ gì nữa:
“Người sẽ phất cờ hiệu cho các dân tộc, và từ bốn phương thiên hạ, sẽ quy tụ những người Israel biệt xứ, sẽ tập hợp những người Giuđa bị phân tán” (11,12).
Isaia II cũng công bố những lời an ủi như thế trước những cuộc lưu đày Babylon:
“Đừng sợ, có Ta ở với ngươi! Từ phương đông, Ta sẽ đưa con cái ngươi về, và từ phương tây, Ta sẽ cho con cháu ngươi đoàn tụ. Ta sẽ nói với phương Bắc: Đưa cho Ta! Và nói với phương Nam: Đừng giữ lại! Hãy đưa con trai Ta về từ viễn xứ, và con gái Ta từ góc biển phương trời. Đó là tất cả những người mang danh Ta, đã được Ta tạo dựng, nắn thành hình và làm nên, cho danh Ta rạng ngời vinh hiển” (43,5-7).
Isaia III cũng rất nhấn mạnh sự hồi hương của con cái xứ sở, khi Kyrô vua Ba Tư giải thoát họ khỏi tay người Babylon thì chỉ có một số rất nhỏ con cái Israel trở về Giuđa. Hầu hết những người lưu đày đều đã trải đời nơi đất khách quê người. Con cái của họ sinh ra ở đó và nhiều người trong họ đã kết hôn với những kẻ đã bắt họ đi lưu đày. Một lần nữa khó mà diệt trừ dòng dõi của họ. Nhưng ước mơ của vị ngôn sứ thuộc về một thời gian khi một lần nữa tất cả Israel phải phân tán khỏi miền đất hứa. Ngài kêu gọi Giêrusalem:
“Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm từ bên hông” (60,4).
Sự phục hồi phúc lành của Thiên Chúa cũng được mô tả như một sự phục hồi hoa trái đối với miền đất. Thị kiến của Isaia II mô tả ơn cứu chuộc Thiên Chúa dành cho Israel như mở ra một kỷ nguyên mới của hoa trái và sự phong nhiêu. Thiên Chúa hứa như sau:
“Ta sẽ khai mở sông ngòi trên các đồi trọc, và khe suối dưới các lũng sâu. Ta sẽ biến hoang địa thành hồ ao, biến đất khô nên mạch nước dồi dào. Và trong vùng hoang địa, ta sẽ trồng bá hương, keo, sim với ô-liu; trên những dải đất hoang, ta sẽ cho mọc lên một trật nào trắc bá, nào du nào hoàng dương, để cùng một lúc, thiên hạ đều nhìn ra và nhận biết, nghiền ngẫm và hiểu rằng: điều ấy, bàn tay Đức Chúa đã làm nên, điều ấy, Đức Thánh của Israel đã tạo thành” (41,18-20).
Điều này lặp lại xác tín của Isaia I rằng: khi Thiên Chúa đến, Người sẽ cứu thoát dân khỏi đau khổ:
“Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Ly-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-rôn. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta” (35,1-2).
Cùng với hoa trái tự nhiên được phục hồi, sự thịnh vượng cũng được nhân lên gấp bội. Isaia III cũng rất nỗ lực diễn tả điều này trong thị kiến nói về tình trạng được chúc phúc dành cho Israel sau cuộc hồi hương từ nơi lưu đày, những người đứng đầu và đoàn người hồi hương sẽ về Giêrusalem mang theo sự giàu sang của những người láng giềng Israel:
“Trước cảnh đó mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” (60,5-6).
Tất cả những ai đói khát sẽ được no thỏa. Thiên Chúa mời gọi họ như sau:
“Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” (55,1).
Trong nền kinh tế thị trường của chúng ta thì lời mời gọi này diễn ra khá bất ngờ. Không có tiền làm sao mua được nhu cầu cần dùng cho đời sống? Nhưng Thiên Chúa của Isaia là một Thiên Chúa cắt ngang mọi quy tắc hợp lý của con người. Thiên Chúa làm thỏa mãn nhu cầu của chúng ta cách rộng rãi mà không cần một lý lẽ nào. Israel được mời gọi tín thác vào một Thiên Chúa quá cao xa và phi lý. Trong kỷ nguyên mới của phúc lành thiêng liêng mà Thiên Chúa sẽ đảm bảo chắc chắn rằng không ai mà không mong muốn:
“Những ai nghèo hèn, khốn khổ, tìm nước không ra, lưỡi khô vì khát, Ta, Đức Chúa, Ta sẽ đáp lời, Ta, Thiên Chúa của Israel, Ta sẽ không bỏ rơi” (41,17).
Phúc lành thiêng liêng trong thế giới cổ đại cũng được diễn tả bằng những thuật ngữ nói lên sự phong phú của con người. Họ nhận ra rằng phúc lành được Thiên Chúa ban sẽ tuôn đổ dồi dào trên con cháu. Trong sách Sáng Thế, Abraham nhận được lời hứa rằng con cháu của ông sẽ đông như sao trên trời (st 15,5) và đây là một chủ đề xuyên suốt lịch sử Israel. Trong Isaia II, Thiên Chúa cũng ban một lời hứa như thế trước những cuộc lưu đày:
“Vì Ta sắp đổ mưa xuống những vùng hạn hán, và cho suối chảy trên mảnh đất khô cằn; trên dòng dõi ngươi Ta sẽ đổ thần khí, trên con cháu ngươi Ta sẽ ban phúc lành. Chúng sẽ mọc lên giữa đồng cỏ, như dương liễu bên dòng nước” (44,3-4).
Lời hứa này cũng được gửi tới những cuộc hồi hương và lưu đày trong Isaia III:
“Từ Gia-cop, Ta sẽ cho phát xuất một dòng dõi, và từ Giuđa, một người sở hữu các núi của Ta; những người được Ta tuyển chọn sẽ sở hữu chúng, ở đó, các tôi tớ của Ta sẽ cư ngụ” (65,9).
Phần thưởng của một đời sống trường sinh cũng được tin tưởng như một dấu chỉ của phúc lành thiêng liêng. Trong một thời đại không còn niềm tin vào đời sau thì cái chết quả là một sự nguyền rủa. Có nghĩa là nó không chỉ cắt đứt niềm vui đời này mà còn cắt đứt tình yêu thiêng liêng. Do đó người ta tin rằng những người được Thiên Chúa chúc lành thực sự thì sẽ sống lâu. Tất cả những vị cao niên của Israel đều tin rằng sống thọ chính là dấu chỉ cho thấy họ gần gũi Thiên Chúa. Món quà sự sống này là phần chính trong thị kiến cứu chuộc được loan báo cho dân cư Giêrusalem sau cuộc lưu đày trong Isaia III. Hành động quyền năng của Thiên Chúa nhân danh Israel hầu như vượt trên giới hạn của cái chết:
“Nơi đây, sẽ không còn trẻ sơ sinh chết yểu và người già tuổi thọ không tròn; vì trăm tuổi mà chết là chết trẻ, và chưa tròn trăm tuổi mà chết là bị nguyền rủa” (65,20).
Cư dân Giêrusalem sẽ sống lâu để thưởng thức món quà cao quý do công việc tay họ làm nên và có thể nếm hưởng trong bình an và bảo đảm:
“Người ta sẽ xây nhà và được ở, sẽ trồng nho và được ăn; người ta sẽ không xây nhà cho người khác ở, không trồng nho cho kẻ khác ăn; vì cây được bao nhiêu tuổi, dân Ta cũng sẽ thọ được bấy nhiêu; và những kẻ do Ta chọn sẽ được hưởng kết quả do tay chúng làm” (65,21-22).
Sống trong một miền đất bị những người xâm lược chà đạp hết lần này đến lần khác, và hơn một lần đã bị cuộc xung đột dân cư làm cho tan nát, thì việc Thiên Chúa ban phúc lành thực sự là một bảo đảm chắc chắn.
Các ngôn sứ tin rằng dù sự thất bại của dân tộc là do tội xúc phạm đến mối tình mà họ được mời gọi đi vào, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn trung thành. Thiên Chúa đã hứa với Israel thì cũng chính Người lôi cuốn chúng ta đi vào quỹ đạo phúc lành. Thiên Chúa luôn trung thành với Israel cũng sẽ trung thành với chúng ta và chúng ta cũng được đáp trả tình yêu và lòng từ bi thiêng liêng bằng lòng trí luôn rộng mở.
Câu hỏi
1. Có bao giờ bạn cảm nếm được mối tình giữa bạn với Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi phúc lành?
2. Có khi nào bạn gặp khó khăn trong việc tin tưởng vào Thiên Chúa để thỏa mãn nhu cầu của bạn không?
3. Bạn có thể kể lại niềm hy vọng của con cái Israel nơi lưu đày cho những người dân trong đất nước của bạn không?
Sách Tham Khảo
Kaiser, Otto, Isaiah 1-12: A Commentary. London: SCM, 1983.
Clememts, R.E., Isaiah 1-39. New Century Bible Commentary. Grand Rapids, MI: Eerdmans, 1980.
Scullion, John J., Isaiah 40-66. Wilmington, DA: Michael Glazier, 1982.
Westerman, Claus, Isaiah 40-66: A Commentary, London: SCM, 1969.
Whybray, R.N., Isaiah 40-66. New Century Bible Commentary, Grand Rapids, MI: Eerdmans, 1981.
Hayes, John J. and Irvine, Stuart A., Isaiah, the Eighth-Century Prophet: His Times and His Preaching. Nashville, Abingdon, 1987.
|
|