|
GIÁO SƯ NHẠC SĨ PHẠM ĐỨC HUYẾN VỚI GIÒNG NHẠC VIỆT RẠNG RỠ QUÊ HƯƠNG
Theo truyền thống của nền Âm nhạc Hoa Kỳ thì cứ 4 năm một lần, các nhạc sĩ trong toàn quốc lại có cơ hội ngồi lại với nhau trong thính đường để cùng với các Ban nhạc của các sắc dân có mặt trong vùng trời tự do này thưởng thức và tìm hiểu một cách cụ thể có chiều sâu về các đường nét đặc trưng của làn điệu dân ca hoặc nhạc cụ và cách trình tấu độc đáo mang bản sắc văn hóa đặc thù của từng dân tộc.
Kỳ vọng đó đã xảy ra nơi vùng đất Thung lũng Hoa vàng thân yêu của chúng ta : Thánh đường Chính Tòa Saint Joseph ở downtown được dùng làm thính phòng với tất cả nét đẹp nghệ thuật và trang trọng đài các của ngôi thánh đường đã tạo cho ngày Đại Hội Âm Nhạc Công Giáo Hoa Kỳ thêm phần hứng khởi.
Để tìm hiểu một nền văn hóa nào đó, con người đã tìm đến với rất nhiều lãnh vực, trong đó có âm nhạc. Âm nhạc có sự sống riêng biệt của chính nó, song hành và gắn liền với dòng sinh mệnh của một dân tộc, là cái nôi chuyên chở cảm xúc thăng trầm, triết lý nhân sinh, bản sắc dân tộc và cả sự văn minh, sự trù phú gấm vóc của quê hương cũng đã được tìm thấy nơi dòng nhạc, làn điệu và nhạc khí của dân tộc đó. Do vậy, từ lâu khát vọng về giao lưu văn hóa văn nghệ được nêu lên như một nhu cầu góp phần đưa các Dân tộc xích gần lại với nhau hơn, chia xẻ cho nhau những tâm tư đồng điệu trong tận cùng cảm xúc cùng chung một nhịp đập về : TÌNH YÊU – CON NGƯỜI và VŨ TRỤ. Điểm đặc biệt ở Đại Hội kỳ này là với con số khoảng 500 nhạc sư, nhạc sĩ, nhạc trưởng, ca trưởng và các nhà khảo luận Hoa Kỳ tề tựu bên cạnh một số ít khách được mời trong hạn chế, đã nói lên được tầm mức và thành quả có được trong các buổi trình tấu hợp xướng trong Đại Hội.
Đại Hội âm nhạc kỳ này được sự góp mặt phô diễn của 6 ca đoàn đại diện cho 6 sắc dân có mặt tại Hoa Kỳ, trong đó có Đại Hàn, Phi Luật Tân, Mễ, Samoa và Việt Nam. Trong giới hạn của bài báo và cũng là chủ đích, chúng tôi xin được đóng khung để giới thiệu đến quý độc giả đôi nét thành quả mà Ca Đoàn Hợp Xướng của Giáo Xứ Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Giáo Phận San Jose đã thay mặt cho sắc dân người Việt và đã tạo được cho Cộng đồng Việt Nam chúng ta thêm những điểm son và dấu ấn tốt đẹp khắc ghi nơi lòng người thưởng ngoạn, nhất là các Nhạc sư, Nhạc sĩ, Ca trưởng, Nhạc trưởng và các nhà khảo luận âm nhạc của Hoa Kỳ một nụ cười mãn nguyện và khâm phục trong từng tràng pháo tay dòn tan đắc ý và tán dương, đó cũng là nhịp cầu giao cảm sâu đậm giữa người bản xứ Hoa Kỳ dành cho người Việt lưu vong trong khung trời nghệ thuật tạo tiền đề cho những khai mở khác trong lãnh vực văn hóa văn nghệ và những sinh hoạt tương quan khác được thuận lợi hơn trong tương lai.
Với gần 60 ca viên tuyển chọn đặc biệt từ 7 Ca đoàn thuộc Giáo xứ qui tụ về trong lớp Hợp Xướng do Giáo sư Nhạc sĩ Phạm Đức Huyến đảm trách, với một thời gian tập luyện khá gấp rút nhưng do sự nhuần nhuyễn tập luyện từ các ca đoàn và đặc biệt trong lớp Hợp Xướng, kết hợp với trách nhiệm nặng nề được giao phó là làm vinh danh cho Quê Mẹ Việt Nam, họ đã hát với tất cả cảm xúc chất chứa tin yêu và hãnh diện. Được sự đồng hành và dạo khúc của tiếng sáo, tiếng đàn đặc thù dân tộc dẫn lối về với cội nguồn Việt Nam của đàn bầu, xen lẫn ngón đàn tranh độc đáo như hòa quyện vào cảm xúc, tạo nên những rung động hưng phấn về tình yêu và tình tự dân tộc – ở đó họ gặp gỡ và chan hòa hơi thở quê hương vào lời ca tiếng nhạc vừa để tán dương đồng thời nhắc nhở cho nhau về một truyền thống tuyệt vời của người dân Việt : HIẾU – TRUNG.
"Cây có cội – hãy gìn cây cho thẳng,
Nước có nguồn – hãy giữ nước cho trong".
Lời dặn của Tổ Tiên Lạc Hồng cứ vẳng đưa trong tôi xen lẫn lời ca tiếng nhạc đang uốn lượn theo ngón đàn dân tộc khi trầm lắng uy nghiêm, khi thánh thót ngân nga, đôi khi trìu mến gọi mời, đã cuốn lôi hàng trăm đôi mắt chăm chú lắng nghe. Dõi theo từng cung điệu đặc trưng của lối nhạc dân tộc Việt được cấu trúc theo thang âm ngũ cung đặc biệt theo tổng hệ của dân tộc Kinh bao gồm : Thang âm, điệu thức và tiết tấu. Ngoài ra, chữ Việt thuộc loại chữ độc âm với 5 dấu 6 giọng lại là một đặc sản văn hóa mà người ngoại quốc cứ mãi khen là người Việt Nam nói mà như hát vậy, nhất là khi lời nói được cất lên theo lối diễn cảm thì tác dụng nhạc tính lại càng gia tăng và có khả năng truyền đạt tế-vi độc đáo. Do đó, điệu thức và tiết tấu phải mang một sắc thái đặc thù, được xem là hai phương tiện ắt có và đủ để chuyên chở các dòng chữ vô tri ấy lên các dấu nhạc, hòa quyện tạo nên những hơi thở dạt dào cảm xúc tình người mà vẫn giữ được nét đặc trưng đầy tự hào và quyến rũ. Và cũng chính vì các yếu tố nêu trên, đã tạo nên một hệ thống nhạc cụ và lối trình tấu, điều khiển cũng như uốn theo hệ thống thang âm ngũ cung, tiết tấu và điệu thức để diễn đạt thật sâu sắc và chuẩn xác, tinh tế và thẩm mỹ theo đòi hỏi của ngôn ngữ đặc biệt của dân tộc Việt. Thẩm mỹ quan Việt Nam được đẽo gọt, thử thách và nhào nặn, uốn nắn qua bao đời theo một qui luật khắt khe mà có được, tồn tại và phát huy lưu truyền như nguồn suối mát trong làm chảy tuôn dạt dào những âm thanh hòa quyện, chứa chan và bàng bạc đó đây trong ca dao, trong lời ru con, trong từng điệu khúc hát hò, trong câu vè, nhạc lễ. Và nếu thẩm mỹ đã tiềm ẩn trong dòng nhạc Việt như một lưu dấu đặc trưng, thì cách phối âm, cách trình tấu, ngay cả nhạc khí và lối điều khiển hợp xướng, tính thẩm mỹ cũng phải là yếu tố quyết định tiên khởi để trở thành chìa khóa, làm bật tung ra nét đẹp vời vợi ấy ẩn tàng sâu lắng hay "ngủ quên" khi chưa có "xúc tác" khơi dậy.
Với chủ đề và cũng là chủ trương của cố Nhạc Sư Hải Linh mà người kế thừa là người cháu thân thương – Nhạc Sư Phạm Đức Huyến : NGỢI KHEN THIÊN CHÚA – TÁN TỤNG QUÊ HƯƠNG. Với 2 chủ điểm đó, tự nó đã phản ảnh rõ nét truyền thống lâu đời và cao quý của của Việt đạo : HIẾU TRUNG. Dựa theo chủ điểm, 3 bài ca được lựa chọn vừa để phô diễn những đường nét độc đáo của dòng nhạc Việt Nam đậm nét tư tưởng và cảm xúc nhân sinh như nhắc nhở cho khán thính giả thấy được – cảm nhận được – và chia xẻ được cái vốn HIẾU ĐẠO tông truyền cao quý nơi mọi người con dân nước Việt – nơi niềm tự hào về mảnh giang sơn gấm vóc với hơn 4.000 năm dựng nước và kiêu hùng giữ nước, mà Tổ Tiên đã dầy công tô bồi gìn giữ, nay trao lại cho con cháu nâng niu, hãnh diện.
Trong khung cảnh trang nghiêm và trầm ấm của thánh đường, khán thính giả được mời gọi theo dõi 3 bài ca tiêu biểu của dòng nhạc Việt Nam : Lễ vật dâng Chúa (Phạm Đức Huyến) – Tán tụng hồng ân (Hải Linh) – Hương Quê (Hải Linh). Thính phòng im bặt khi khúc nhạc dạo đầu của dàn nhạc Giao hưởng dân tộc được tấu lên gồm sáo, đàn tranh, đàn bầu có piano, organ... phụ họa làm nền cho thêm phần mầu sắc : "Con chẳng có vàng, cũng chẳng có mộc dược, và không có nhũ hương, con chỉ có con tim chân thành thờ lạy Chúa..." được ca đoàn cất lên theo tiết tấu của ngũ cung Việt Nam, đã thu hút sự chú ý theo dõi của khán thính giả ngay từ phút đầu tiên, bởi tất cả đối với họ quá xa lạ, không che giấu nỗi ngạc nhiên trên vừng trán đăm chiêu. Với người ngoại quốc, do bất đồng ngôn ngữ, họ đã không thể hiểu được lời ca với tất cả ý nghĩa sâu xa được chuyển đến, nhưng do đồng cảm về nhạc tính và nhất là giới thưởng ngoạn lại là nhạc sư, nhạc sĩ, nhạc trưởng, ca trưởng và khảo luận, thính năng giúp họ theo dõi một cách đặc biệt từng cử động, diễn xuất của ca đoàn, nhạc khí và nhạc trưởng, họ đón dòng âm thanh tuôn chảy theo tiết tấu khi nhặt khi khoan, khi mềm mại dịu êm, khi vươn lên dồn dập xen lẫn tiếng đàn tranh, đàn bầu, tiếng sáo độc đáo trong từng luyến láy, mổ, nhấn, rung, khiến dòng thanh âm cũng được cuốn theo cùng hệ thang âm, khi tắt dần như thẩm sâu vào tận cùng cảm xúc con tim, khi rơi nhẹ ngân vang như tiếng thì thầm tình tự, lúc nhấn mạnh đong đưa như tiếng vọng gọi mời, giục dã... Cả một bầu tâm sự của dòng nhạc Việt biểu trưng cho tâm hồn người dân Việt tộc, chất chứa tàng ẩn đó đây đã được tiếng sáo và các ngón đàn độc đáo khai phóng, mở lối phơi bày và hòa nhịp chung trong cùng một cảm nhận. Điểm ghi nhận đặc biệt ở đây là giới thưởng ngoạn âm nhạc Âu Mỹ đã nhận ra đường nét đặc biệt của lối điều khiển của dòng nhạc Việt Nam do Nhạc sư Phạm Đức Huyến thủ vai ca, nhạc trưởng. Tất cả phải đồng bộ trong một cảm xúc chung nhất khi phô diễn đường nét nghệ thuật đặc thù, do đó, tay nhịp của người điều khiển cũng phải được khép vào khuôn khổ thẩm mỹ mới lột tả được, và vì thế tay nhịp đã phải uyển chuyển và đong đưa theo lối hát tiết tấu của ca đoàn, một lối hát khác với lối hát Âu Mỹ là hát trường canh dựa theo phách mạnh yếu của nốt nhạc quyết định, sẽ không phù hợp khi áp dụng vào dòng nhạc Việt, vì lẽ sẽ gặp nhiều trở ngại, nhất là khi phối thành bè hợp xướng như : ép dấu một cách gượng gạo, đôi khi có tác dụng ngược với nội dung chuyên chở, nhất là chuyên chở lời tình tự hoặc bản sắc dân tộc, triết lý lại càng hạn chế. Một ví dụ cụ thể, nếu hát theo lối trường canh, thì câu nhạc được chia như sau trong bài Đêm Đông : Đêm/ đông lạnh/ lẽo Chúa/sinh ra/đời Chúa – Đêm là một từ ngữ thuộc về thời gian và mang đặc tính chuyển động trong không gian, "đêm" chuyển dịch từ Thiếu âm sang thái âm để rồi trở lại Thiếu âm và mất dần âm tính khi vừng dương ló rạng theo chu kỳ hình SIN mà thời gian là hằng số xác định, vì thế "đêm" không thể "đông lạnh" được, cũng vậy "lẽo Chúa" thì càng ngây ngô, vô nghĩa nếu không muốn nói là sự câm nín của âm thanh và ngữ nghĩa; nếu hát theo tiết tấu, sự phân định và chuyên chở nội dung đã lột tả được chân xác giá trị của nó : đêm đông – lạnh lẽo – Chúa sinh – ra đời...
Trở lại với lời ca mà ca đoàn vừa cất lên – với lối hát tiết tấu, người Việt Nam chúng ta dễ dàng cảm nhận được ở đây đạo hiếu được đề cao như là điểm son tự hào của dân tộc Việt : ăn quả nhớ kẻ trồng cây – Ăn cây nào, rào cấy ấy. Công lao sinh thành dưỡng dục của song thân cao vời tựa núi Thái Sơn và bao la như biển Thái Bình. Sự so sánh mang tính ẩn dụ và triết lý nhân sinh đó lại được nhắc đến trong Tân Ước của đạo Công giáo. Xưa kia 3 đạo sĩ đã dâng tiến vàng, nhũ hương, mộc dược để tỏ lòng bái phục khi Chúa giáng sinh như là Thánh Thượng hoàng đế, nay phận làm con cái, một vinh dự cao quý lắm chứ, sao chẳng có gì cả, mà chỉ có mỗi một con tim thôi ư ? "Dâng lên tâm hồn giá lạnh đêm đông"... Lại một con tim giá lạnh, hời hợt thế sao, con tim đã nguội câm lòng mến, đã xơ cứng cảm xúc, đã nhạt dần màu đỏ thắm, đã tắt lịm tiếng nói thân quen, đã xa lìa nhịp đập huyết thống CHA-CON. Một tấm lòng quá nhạt nhẽo, quá bạc bẽo giá băng như thế, bẽ bàng xót xa như thế, Chúa vẫn nhận ư ? Chúa nhận chứ, nhận một cách nhiệt tình hớn hở là đằng khác, vì theo sự trình thuật của Thánh kinh trong dụ ngôn "Người con hoang đàng, sau khi được chia gia tài, chàng trẩy đi phương xa, ăn chơi phung phá sạch đến đồng xu cuối cùng, túng quẫn đã liều ăn cả phần ăn của heo, đau buồn chàng trở về xin làm gia nhân cho bố, nhưng không – Cha sai gia nhân đưa áo đẹp và nhẫn xỏ vào tay con, làm tiệc ăn mừng vì "Con ta đã mất nay có lại được...". Nhận lấy trái tim cho dù đã xơ cứng, lão hóa, thì vẫn là trái tim với tất cả ý nghĩa và chức năng của nó. Thổi vào đó luồng sinh khí yêu thương, ủ ấp và vuốt ve cho dòng cảm xúc luân lưu tuôn chảy, trái tim được hồi phục với nhiệt nồng bỏng cháy hạnh phúc, vì thế mà được ngự trị mãi nơi đỉnh cao của tình yêu chân chính, đam mê. Tình yêu thương, một chiều từ cha mẹ xuống tới con cái thể hiện qua ý niệm "Nước mắt chảy xuống", đã gặp gỡ tuyệt vời tình thương Thiên Chúa qua dụ ngôn trên. Tình thương ấy quả là một ân huệ, một ân sủng lớn lao dành cho con cái, và để tỏ lòng tri ân, ca đoàn hướng dẫn khán thính giả đi vào tấu khúc hiếu đạo của dân tộc Việt : TÁN TỤNG HỒNG ÂN. Nơi đây, để tán dương công đức, để nâng lời cảm tạ chân thành, người nghe lại một lần nữa được nhắc nhở một sự so sánh rất thực tế cuộc sống : "thương con như gà mẹ ủ ấp con dưới cánh – Nhiệm mầu tình Chúa cao siêu, loài người được Chúa nâng niu – "Nâng niu tựa con ngươi trong mắt Chúa". Còn gì chân xác và kiêu hãnh tự hào hơn nữa khi loài người được chăm sóc cẩn trọng như con ngươi Thiên Chúa – Ở đây, một lần nữa, sự gặp gỡ tương giao kỳ lạ của ca dao Việt Nam. "Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn", đã nói lên phần nào hạnh phúc và vinh dự của phận làm con, còn ngại ngùng chi nữa mà không Tán tụng hồng ân cao vời ấy. Ở phút cuối cùng của chương trình là bài Hương Quê của cố Nhạc sư Hải Linh với tiết tấu dồn dập, vui tươi được soạn thành 4 bè hợp xướng, được Nhạc sĩ kiêm Nhạc trưởng viết phần phối khí hòa âm cho sáo, đàn bầu, đàn tranh, Organ và Piano, được ca đoàn chuyển đến trong lời ca nhẹ nhàng nhưng chứa chất nhiều cảm xúc về một quê hương Việt Nam gấm vóc, tựa như phóng ảnh màu của bức tranh toàn cảnh giang sơn hình chữ S đậm màu tình tự. "Bao la trời Việt Nam in một màu xanh ngắt, đây bức tranh muôn màu, hoa lá như tươi cười, tô thắm một trời vui, đời đẹp tươi". Hoa lá, cỏ cây, cảnh vật như rộn rã reo hò trong bầu trời thanh bình, dạt dào ánh dương như nhắc bảo cho con dân Việt lưu vong một mảnh hình hài dấu yêu của Mẹ, cả một trời hạnh phúc, một bàn tay rộng mở đón chào, một cảnh sống, tâm tư chung nhất cho mọi người con xa xứ, "Hòa bình trên trái đất" như một điệp khúc vang vọng nơi nơi, càng làm cho dân Việt lưu luyến với nguồn cội hơn nữa. "Bên ngàn hương bay, tình thơ lưu luyến chung sống những ngày vui" sao êm đềm và nhung nhớ quá thôi.
Với lối viết đệm "Tang tang tang tang tình" cho 2 bè Tenore và Basso được lập đi lập lại nhiều lần, người nghe như ngỡ rằng đây là một loại nhạc khí "sống" được dùng làm nền ở âm vực thấp hầu "tôn" lên dòng suối âm thanh đặc thù từ sáo, đàn tranh và đàn bầu được tự do bay lượn trong không gian, dẫn lối cho lời ca thấm nhập và đạt được tác dụng tự tình của riêng nó.
Tiếng vỗ tay của cả thính phòng dành cho ca đoàn hợp xướng Việt Nam, cho các ngón đàn, tiếng sáo của các nghệ nhân có biệt tài lột tả cảm xúc như đã khắc ghi đậm nét một thán phục, cảm mến nơi lòng khán thính giả có mặt trong Đại Hội Âm Nhạc, làm rộn lên niềm xúc cảm sâu lắng và tự hào, đã là nhân tố tích cực giúp tác giả ghi lại nơi đây đôi nét về buổi hợp xướng đó với tất cả tạ ơn người, tạ ơn ai, đã cho tôi một kiếp người... Việt Nam".
Tự khẳng định cho mình một bước đi phấn chấn, với một niềm tự tin, tự hào dân tộc chất chứa trong tim, các anh chị em ca viên đã đại diện cho những đứa con ngoan cường của Mẹ Việt Nam, nói với những người anh em đồng loại khác màu da, khác chủng tộc, khác nguồn nước mát trong... rằng, Dân tộc Việt Nam quả đã có một truyền thống văn hóa đạo đức như thế đó, rất Nhân Bản, rất Con Người. Nhạc khí Việt Nam với hệ thống ngũ cung có vẻ như "thiếu" đó, lại có một khả năng độc đáo "cõng" được khối lượng lời ca cũng mượt mà dịu êm, cũng súc tích nội dung không thiếu, giải tỏa được những ẩn ức mà với ngôn ngữ đặc trưng Việt tộc, hệ thống thất âm khó lòng len lỏi và chuyển tải một cách nhuần nhuyễn mà không gượng ép, cứng ngắc, đôi khi khô khan, lạ lẫm và lạc ý.
Xin cám ơn nghệ nhân sáo Phạm Bài, nhạc sĩ nhạc công đàn bầu Bùi Hữu Nhật, Giáo sư đàn tranh Ngọc Dung, nhạc công Quốc Anh phụ đệm dương cầm, và cô Ngọc Diệp diễn tấu đàn Organ, đã bỏ nhiều công sức tập dượt chỉ với niềm tin và kỳ vọng : làm rạng rỡ 2 chữ Việt Nam. Đặc biệt xin cám ơn Giáo Sư Nhạc sĩ, Nhạc trưởng Phạm Đức Huyến đã với bầu nhiệt huyết trong tim, với lý tưởng phụng sự nghệ thuật : HIẾU TRUNG với cả cống hiến miệt mài không mệt mỏi, đã đem lại thành quả lớn lao, góp phần làm rạng rỡ thêm cho quê hương. Thầm mong rằng nhiệt tình của Giáo sư Nhạc sĩ Phạm Đức Huyến sẽ được nhiều tâm hồn đáp ứng, tiếp tay và hỗ trợ liên tục, mãi mãi.
-- Cao Minh Tâm --
http://phamduchuyen.com/main.html |
|