Love Telling ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN và Quý Khách: BQT-TCVN xin cáo lỗi cùng ACE vì trục trặc kỹ thuật 2 ngày vừa rồi. Trân trọng! Loan Pham nhắn với Gia Đình TCVN: Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể quý anh chị em một Giáng Sinh ấm áp bên gia đình, người thân và tràn đầy ơn lành từ Chúa Hài Đồng. ThanhCaVN nhắn với TCVN: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 16 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. Edit LM Loan Pham nhắn với TCVN: Kính Chúc Cà Nhà Một Tam Nhật Thánh và Một Mùa Phục Sinh Tràn Đầy Thánh Đức ... Loan Pham nhắn với TCVN: Chúc mừng năm mới đến quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể quý anh chị em tron gia đình TCVN thân yêu... Xin Chúa xuân ban nhiều hồng ân đến mọi người. Amen ThanhCaVN nhắn với ÔB & ACE: Kính chúc Năm Mới Quý Mão: Luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN: Kính chúc Giáng Sinh & Năm Mới 2023: An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa. bethichconlua nhắn với Gia Đình ThanhCaVietNam: Chúc mừng sinh nhật thứ 15 website ThanhCaVietNam. Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể anh chị em luôn tràn đầy ơn Chúa. Amen ThanhCaVN nhắn với Quý ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 15 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. phale nhắn với cecilialmr: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với thiên thần bóng tối: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với teenvnlabido: Ngày mai (1/6) sinh nhật của bạn teen / chúc mọi điều tốt lành trong tuổi mới. phale nhắn với tất cả: Xin Chúa cho dịch bệnh sớm qua đi và ban bình an cho những người thành tâm cầu xin Ngài. ThanhCaVN nhắn với ACE: Kính chúc ACE: Giáng Sinh & Năm Mới 2021 - An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
Trang 2/2 đầuđầu 12
kết quả từ 41 tới 47 trên 47

Chủ đề: Exodus - Về miền đất hứa _ Leon Uris

  1. #1
    dominico_dung's Avatar

    Tuổi: 60
    Tham gia ngày: Nov 2007
    Tên Thánh: Dominico
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đàng trong
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,837
    Cám ơn
    6,848
    Được cám ơn 17,690 lần trong 2,615 bài viết

    Default Exodus - Về miền đất hứa _ Leon Uris


    Leon Marcus Uris-1924-2003



    Exodus by American novelist Leon Uris is about the founding of the State of Israel. Published in 1958, it is based on the name of the 1947 immigration ship Exodus.
    In 1956, Uris covered the Arab-Israeli fighting as a war correspondent. Two years later, Exodus was published by Doubleday. ExodusGone with the Wind. Uris had sold the film rights in advance.
    The story unfolds with the protagonist, Ari Ben Canaan, hatching a plot to transport Jewish refugees from a British detention camp in Cyprus to Palestine. The operation is carried out under the auspices of the Mossad Le'aliyah Bet. The book then goes on to trace the histories of the various main characters and the ties of their personal lives to the birth of the new Jewish state.
    A film based on the novel was directed by Otto Preminger in 1960 featuring Paul Newman as Ari Ben Canaan. It focused mainly on the escape from Cyprus and subsequent events in Palestine.


    Exodus_ tác giả Leon Uris (Mỹ) như là một sự ghi nhận về sự sáng lập của Nhà nước Israel thời hiện đại. Tác phẩm được xuất bản vào năm 1958, tựa đề truyện được dựa trên tên một con tàu mà vào năm 1947 đã thực thi xuyên suốt sứ mệnh lịch sử và vinh quang của dân tộc Do Thái: Exodus - Di dân về miền Đất Hứa!

    Vào năm 1956, Uris hoạt động như là một phóng viên phản chiến về cuộc chiến giữa khối Ả-rập và Israel. Hai năm sau khi xuất bản, bởi Doubleday, Exodus trở thành một hiện tượng xuất bản quốc tế, bestseller lớn nhất tại Hoa Kỳ kể từ tác phẩm "Gone with the Wind" của Margaret Mithcell ("Cuốn theo chiều gió").

    Câu chuyện mở ra với nhân vật chính là Ari Nem Canaan, một cốt truyện nảy sinh từ kỳ tích vượt qua bao hy sinh, mất mát để chuyển vận những người tị nạn Do Thái tại một trại giam tên Síp (Cyprus) ở Anh Quốc về đến Palestine - Trung đông.

    Tiến trình di dân về "Miền Đất Hứa" những người Do Thái cón sống sót sau Thế Chiến II được thực hiện dưới sự bảo vệ của tổ chức non trẻ thời bấy giờ: Mossad Le'aliyah Bet (tiền thân của Trung ương Tình Báo-Phản Gián "khét tiếng" của nhà nước Israen ngày nay: MOSAD - người dịch). Tác phẩm sau đó đã đi vào lịch sử, với cuộc đời binh biến bao máu và nước mắt của từng nhân vật danh tiếng cho sự ra đời của Quốc gia Israen - Tổ quốc của người Do Thái.

    Năm 1960, đạo diễn Otto Preminger đã chuyển thể tác phẩm thành phim với tự đề "Paul Newman", nội dung phim xoay quanh nhân vật được xem là Anh Hùng: Ari Ben Canaan và mô tả tập trung vào sự hy sinh, anh dũng trong cuộc "đào thoát" khỏi Síp và lướt qua vài sự kiện tại Palsetin.

    (dominico_dung lược dịch)

    *** Tác phẩm trên đây được Tác giả Thế uyên (http://www.vietnamlit.org/wiki/index.php?title=The_Uyen) "chuyển ngữ" trước năm 1975 tại Sài Gòn. Nay, nhờ có ân nhân vô vàn quý-kính, đã dày công đánh máy rồi upload lên http://vnthuquan.net, từ đó bao người được "hưởng phúc" mà chiêm ngưỡng lại tác phẩm một thời danh tiếng.

    Theo đó, bắt đầu từ hôm nay tôi cũng copy về rồi đưa lên trang diễn đàn này, xin được giới thiệu, không gì hơn là mong được "hâm nóng" một tác phẩm
    best-seller, ngoài ra giúp quý ACE thư giãn sau lao nhọc hàng ngày.

    Từ Diễn đàn Thánh Ca Việt Nam, tôi xin được gởi lời tri ân đến vị đã đánh máy Tác phẩm Exodus và kính lời chúc Sức Khỏe và Bình An.






    Chữ ký của dominico_dung
    "ĐỪNG SỢ, BỞI VÌ CHA GỌI ĐÍCH DANH CON" (Isaia 43,1)

  2. Có 7 người cám ơn dominico_dung vì bài này:


  3. #41
    dominico_dung's Avatar

    Tuổi: 60
    Tham gia ngày: Nov 2007
    Tên Thánh: Dominico
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đàng trong
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,837
    Cám ơn
    6,848
    Được cám ơn 17,690 lần trong 2,615 bài viết

    Default

    Phần 2 - 8

    Tối hôm đó, Jossi có về nghiêm trọng hơn thường nhật. Ngồi cạnh Sarah trên bao lơn căn nhà ba phòng xinh xắn, chàng im lặng ngắm bờ biển Địa Trung Hải giữa Tel-Aviv dưới chân chàng và Jaffa ở phía xa. Đột nhiên chàng nói :
    - Nghe này em, anh vừa có một quyết định. Vừa rồi đây, mọi người yêu cầu anh lấy một tên bằng tiếng hébreu và chỉ nói tiếng hébreu thôi.
    Sazah kêu lên :
    - Chuyện gì kỳ quá! Chính anh đã có lần nói rằng không bao giờ người ta có thể làm sống lại một từ ngữ.
    - Quả anh có nói thế. Anh cũng còn đã từng nghĩ rằng không bao giờ một dân tộc có thể làm sống lại quốc gia đã mất của mình. Dầu vậy, đó là điều chúng ta đang làm. Khi anh nghĩ tới sự phát triển tuyệt đẹp của Shohanna và các Kibboutzim khác...
    Nàng ngắt lời :
    - Chính em đang muốn nói về Shoshanna... Em đánh cá là anh muốn lấy một tên hébreu chỉ vì em trai anh đã làm như vậy. Bây giờ chú ấy tên là gì?
    - Akiba. Để tưởng nhớ đến thần tượng của chú ngày xưa.
    - Mong rằng thần tượng hồi nhỏ của anh là Bismark. Thật thú vị khi có chồng, chồng lại mang tên Tể tướng Đức quốc.
    Chàng la :
    - Quả thực chịu không nổi em đó. Đôi khi tự anh hỏi không biết em về Palestine làm gì. Nếu chúng ta phải học suy tưởng như chúng ta đã có một quốc gia, chúng ta cũng phải học nói quốc ngữ của chúng ta.
    - Đó là điều chúng ta đang làm. Bởi vì chúng ta nói tiếng Yiddish...
    Chàng phản đối :
    - À, không. Chỉ những kẻ lưu đày, những kẻ ở ghetto mới nói Yiddish. Những người Do Thái Palestine, tất cả những người Do Thái đã trở về quê hương đều nói tiếng hébreu.
    Tinh nghịch, nàng chọc ngón tay trỏ vào ngực ông chồng vĩ đại :
    - Thôi xin bồ đừng có kể cho tôi nghe các khẩu hiệu mới nhất của phong trào phục quốc của Do Thái nữa. Đối với tôi, bồ cũng là Jossi Rabinsky.
    - Em lầm rồi, Sarah. Dầu sao thì anh cũng quyết định rồi. Tốt nhất em bắt đầu học ngay hébreu: kể từ giờ chúng ta chỉ nói chuyện với nhau bằng thứ tiếng này mà thôi.
    - Quyết định của anh hoàn toàn khôi hài!
    Hai người đều giữ vững lập trường, thế là chiến tranh bùng nổ. Trong ba tuần lễ liền, Sarah cấm chồng không được vào phòng ngủ. Chàng phải đối lại bằng cách chỉ nói bằng hébreu. Dĩ nhiên là không trả lời bằng Yiddish.
    Dầu thế, một buổi tôi nàng mở cửa phòng gọi :
    - Anh Jossi! Lại giúp em một chút...
    - Xin lỗi em, ở đây không có ai tên là Jossi hết. Nếu em nói với tôi thì tên tôi là Barak Ben Canaan.
    - Cái gi? Anh nói sao?
    - Em thừa hiểu anh nói gì rồi. Anh đã nghĩ rất lâu để tìm một tên hợp với anh. Theo tiếng hébreu, Barak nghĩa là “chớp”, dân Ả Rập gọi roi da của anh như vậy đó. Và anh lấy họ là Canaan bởi vì anh trên núi Canaan...
    Sarab đóng sập cửa trước mũi chàng. Trong suốt một tuần lễ, hai địch thủ đối đầu nhau trong im lặng.

    Một đêm, khi cuộc tiểu chiến đã kéo dài cả tháng rồi, Barak trở về nhà sau một buổi họp hết sức mệt nhọc. Đại hội đồng phục quốc nhóm họp ở Jérusalem. Đại hội đã kéo dài ba ngày - ba ngày bàn cãi ác liệt và thảo luận say mê. Mệt nhoài, Barak đã hy vọng Sarah sẽ chờ chàng về, pha cho một ly trà và nói chuyện cùng chàng. Nhưng Sarah đã vào phòng ngủ nằm, cửa phòng đóng kin. Chàng thở dài, tháo giày, nằm co quắp trên chiếc divan ở phong khách quá ngắn cho một người cao lớn như chàng. Chàng bắt đầu thiếp đi khi một làn sáng lọt qua kẽ mi. Đi rón rén trên đầu ngón chân, Sarah lướt nhẹ đến divan, quỳ xuống đặt đầu lên ngực chàng và thì thào bằng hébreu :
    - Em yêu anh, Barak Ben Canaan. Em yêu anh biết bao.
    Trở thành một trong những lãnh tụ được mọi người nghe theo nhất của phong trao phục quốc, Barak Ben Canaan phục vụ không tiếc công sức, đảm nhiệm song phương các công tác tổ chức và điều đình bao giờ cũng tế nhị với các nhà cầm quyền Thổ và các cheik[1] Ả Rập. Rất nhiều lần, có Sarah đi cùng, chàng sang Luân Đôn, nơi đặt cơ quan đầu não của phong trào phục quốc, hay sang Thụy Sĩ dự các buổi hội họp quốc tế. Tuy thế, chàng không tìm được niệm hạnh phúc mà em chàng, Akiba, đã tìm thấy ở Shoshanna. Ước vọng lớn của chàng - lập nghiệp ở phía bắc ngọn Canaan, trong thung lũng Houleh - vẫn chưa được thỏa mãn. Rất buồn vì thấy chồng tiếc nuối như thế, Sarah hết sức muốn mang lại cho chàng một bù trừ sinh con. Nhưng tạo hóa đã khước từ không cho nàng hưởng niềm vui này: trong năm năm liền, nàng sẩy thai liên tiếp.

    Thất vọng này lại càng cay đắng hơn nữa vì Bark đã tới tuổi bốn mươi lăm...

    Trong thời gian đó, các biến cố chính trị xảy ra dồn dập. Năm 1908, cuộc nổi dậy của Giới Trẻ Thổ đã truất phế Abd Ul Hamid II, một ông vua già thối nát, để thay thế bằng Mohammed V. Vụ thay bậc đổi ngôi này đã làm cho sự hy vọng của người Do Thái Palestine sớm bị tiêu tan: Thừa hưởng một đế quốc lung lay, Mohammed không hề muốn ban cho xứ Palestine một qui chế tự trị, bảo đảm cho sự hiện hữu hợp pháp và một đường lối chính trị của một quốc gia Do Thái. Ngược lại, Anh quốc tiếp tục biểu lộ một cảm tình sâu đậm với chính nghĩa Do Thái. Đến nỗi, đối với các người trong phong trào phục quốc cùng phát ngôn viên của họ là bác sĩ Chaim Weizmann, con đường phải theo coi như đã được vạch rõ: giữa Thổ Nhĩ Kỳ, “con bệnh của Âu châu”, khước từ tất cả mọi trợ giúp, còn Anh quốc, địa vị tại Trung Đông mỗi ngày một thêm vững chắc, nên họ chọn lựa Anh quốc.

    Dầu thế nào đi nữa, sự sụp đổ toàn diện của Đế quốc Thổ chỉ còn là vấn đề thời gian.

    Lúc đó, đệ nhất thế chiến xảy ra.

    Các quốc gia đồng minh Âu châu, sốt ruột muốn chia xẻ các mảnh đất của Thổ ở Âu châu, đã bực tức và ngạc nhiên khi nhận ra Đế quốc Thổ chẳng những không sụp đổ, mà còn tỏ ra là một địch thủ đáng kể nữa. Quân Nga bị chặn đứng ở biên thùy Caucase. Tại Trung Đông, quân Thổ khởi hành từ các vị trí của mình tại Palestine, đã vượt sa mạc Sinai để tiến đến kênh Suez, mạch máu chính của Đế quốc Anh.

    Cuống lên, người Anh xúi dục dân Ả Rập nổi loạn hứa sẽ cho họ độc lập để đổi lại sự ủng hộ chống lại Thổ. Nhưng dân Ả Rập lại muốn chờ xem gió quay chiều nào đã. Và dân Ả Rập cũng không thèm nghe những lời kêu gọi điên cuồng của Mohammed V, lãnh tụ tinh thần thế giới Hồi giáo, đã tuyên bố thánh chiến chống lại Anh quốc. Luân Đôn đành bỏ tiền ra tìm cách mua chuộc kẻ địch vậy. Và Anh lại đóng vai trò truyền thống là làm mồi. Con cá cắn lưỡi câu lần này rất to: émir [2] của La Mecque, “kẻ coi giữ các Thánh địa của Hồi giáo”, con người nhiều tham vọng đã thấy mở ra trước mặt mình những viễn ảnh huy hoàng. Sự chấm dứt triều đại Mohammed V cùng dân Thổ phải chăng sẽ cho phép ông mở rộng quyền bính ra toàn thế giới Ả Rập chăng? Chưa kể một nửa triệu đồng livre bỏ túi đã...

    Vậy là vị émir bước sang hàng ngũ Anh, hứa sẽ xúi dục các bộ lạc trong sa mạc nổi dậy chống lại Thổ. Trong nhiệm vụ này, ông được người con phụ tá, đó là Faycal, một trong những lãnh tụ Ả Rập hiếm có, Faycal có ý thức về xã hội và trí xét đoán của một chính khách.

    Còn về những dân Do Thái ở Palestine, Anh quốc khỏi cần phải mua chuộc. Sự ủng hộ của họ coi như là có rồi. Và họ ủng hộ mạnh đến nỗi ngay lúc chiến tranh mới bùng nổ, họ đã công khai đứng về phía Anh quốc, kẻ thù của Thổ.

    Sự trả đũa của Thổ xảy ra ngay lập tức: Kemal Pacha, được bổ nhiệm làm Thống đốc tỉnh Palestine, quyết định khủng bố toàn diện cộng đồng Do Thái.

    Barak Ben Canaan được báo tin vào giờ chót là chàng và Akiba nằm trong sổ đen của Mật vụ Thổ: điều đó có nghĩa là sẽ bị giết. Chàng chỉ còn tối đa sáu giờ đồng hồ để chạy trốn. Chưa chi tổ chức địa phương của phong trào phục quốc đã bị dẹp bỏ. Sarah hỏi :
    - Chúng ta còn bao nhiều lâu?
    - Chúng ta phải ra đi trước khi trời sáng. Em thu xếp ngay một va-li thôi, đừng lớn quá. Chúng ta phải bỏ lại tất cả.
    Dựa lưng vào tường, nàng máy móc đưa tay xoa bụng. Có mang sáu tháng rồi, nàng cảm thấy cai thái cựa quậy rõ rệt hơn các lần mang thai trước. Nàng nghĩ: “Năm lần sẩy rồi, và bây giờ...”
    - Em không muốn đi. Không thể được... Em không thể...
    - Sarah! Không phải lúc.
    Nàng rời tường để lao vào vòng tay chàng.
    - Anh Barak, hiểu cho em.... em không muốn mất đứa con này... em không thế nào chịu nổi...
    Chàng thở dài.
    - Em không thể nào ở lại đây được đâu, Sarah. Nếu tụi Thổ đến bắt em... anh không muốn tưởng tượng đến những gì xảy đến cho em.
    - Nếu em chạy theo anh, em không thế nào giữ cái thai này được. Con của chúng ta, anh!
    Chàng gỡ tay nàng ra, rồi chậm chạp cột lại cái túi đi đường.
    - Hứa với anh là em lập tức lên đường đi Shoshanna. Ở đó, thím Ruth sẽ chăm sóc em. Nhớ đừng có lại quá gần những con bò cái yêu quý của thím ấy!
    Chàng hôn nàng và Sarah nhót gót lên để bám được vào vai chồng.
    - Shalom, Sarah. Anh yêu em.
    Chàng quay nhanh người lại, và từ giã.

    Akiba và Bark chạy trốn sang Le Caire, nơi ông bạn Trumpeldor, người chiến binh cụt tay, đang thành lập một đơn vị Do Thái gốc Palestine. Sau này, tiểu đoàn này đã tham dự vào cuộc đổ bộ của Đồng Minh vào Gallipoli cùng cuộc mở đường thất bại qua eo biển Dardanelle. Trong khi rút lui, Akiba bị một viên đạn vào ngực. Được đưa trở về Ai Cập và tiểu đoàn sau đó bị giải tán. Akiba và Barak lên đường đi Luân Đôn, nơi một đoàn viên phục quốc khác tên là Jobotinsky đang mộ người Do Thái tình nguyện để lập một đạo quân quan trọng hơn. Nhưng cả hai anh em đều không được tham dự vào đơn vị mới này: Akiba, vết thương lâu lành lại được gửi sang Hoa Kỳ đi thuyết trình. Còn Barak, hữu ích gì để làm người bộ binh tầm thường, nên tiến sĩ Weizmann đưa chàng vào trong ê-kíp lo các vụ thương thuyết về chính trị.

    Quân Anh lúc đó vừa bị một loạt thất trận nghiêm trọng tại Trung Đông. Tướng Maud, sau khi đã chiến thắng “oai hùng” vài đơn vị Thổ gồm toàn dân Ả Rập, đã chạm phải cả một sư đoàn Thổ và đơn vị này đã đánh đơn vị ông tan tành. Lúc bây giờ, tại phía Nam quân Thổ đe dọa trực tiếp kênh Suez; và ở Âu châu, quân Đức đã đánh tan đạo quân Nga ở tuyến đầu!

    Còn về giấc mơ của Anh là có một cuộc nổi dậy của Ả Rập chống lại Đế quốc Thổ, chưa bao giờ lại có thể khó như lúc này. Quả thực vậy, người Ả Rập nghi ngờ Luân Đôn và Ba Lê đang bí mật chuẩn bị một thỏa ước chia đôi thế giới Hồi giáo giữa hai cường quốc đó!

    Chaim Weizmain ý thức rằng phong trào phục quốc Do Thái phải khai thác tình hình trên để tiến một bước quyết định. Chưa bao giờ Anh quốc lại cần trợ giúp và ủng hộ đến như vậy. Một mặt khác, chính phong trào phục quốc cũng tìm một phương cách để lôi cuốn những người Do Thái cư ngụ tại các nước khác, nhất là Hoa Kỳ; vào phong trào chung.

    Bởi thế, sau một thời kỳ thương thuyết gay go, Lord Balfour, Tổng trưởng Ngoại giao Anh quốc, gửi cho Lord Rothschild một bưu điệp trong đó ông nói ;
    Chính phủ của Đức Vua đang cứu xét một cách thuận lợi việc thành lập ở Palestine, một quốc gia cho dân tộc Do Thái, và sẽ cố gắng dành mọi sự dễ dàng cho việc thực hiện dự án này.
    Phong trào phục quốc Do Thái sau cùng, có được Đại Hiến Chương của mình!


    ------------------------------------------
    *Chú thích
    [1] Cheik: tù trưởng Ả Rập
    [2] Émir: tiểu vương Ả Rập (xem 14)

  4. Được cám ơn bởi:


  5. #42
    dominico_dung's Avatar

    Tuổi: 60
    Tham gia ngày: Nov 2007
    Tên Thánh: Dominico
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đàng trong
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,837
    Cám ơn
    6,848
    Được cám ơn 17,690 lần trong 2,615 bài viết

    Default

    Phần 2 - 9

    Mật vụ của Kemal Pacha khám phá ra nơi trú ẩn của Sarah Ben Canaan hai tuần trước ngày nàng sinh. Không thèm để ý tới tình trạng thai nghén, chúng bắt nàng lúc nửa đêm, đẩy vào trong một xe bít bùng, đưa đến đồn cảnh sát Tibériade...

    Cuộc thẩm vấn đầu tiên kéo dài hai mươi bốn giờ không một phút nghỉ.
    - Chồng bà trốn nơi nào? - Hắn đã làm thế nào để chạy thoát được? Bà liên lạc với hắn bằng cách nào? - Bà do thám chúng tôi cho tụi Anh - đừng cãi vô ích chúng tôi biết rõ hết... Ai là những người cung cấp tin tức cho bà trong vùng?
    Không hề bối rối, Sarah nhận Barak đã trốn vì những cảm tình thân Anh, những cảm tình từ trước đến giờ chàng cũng không bao giờ giấu diếm. Nàng ở lại xứ Palestine chỉ cốt đợi đứa con ra đời. Còn về lời kết án làm gián điệp nàng phủ nhận hoàn toàn trước sự giận dữ của thanh tra điều khiển cuộc thẩm vấn. Sau hai mươi bốn giờ thẩm vấn này, Sarab rõ ràng là người trầm tĩnh nhất trong văn phòng nhỏ bé ấy.

    Nhưng nàng không thoát thân dễ dàng được. Mọi người lôi nàng sang phòng bên cạnh. Trong phòng một ngọn đèn dầu với khói đen bám vào, được treo trên trần, lắc lư phía trên một cái bàn bằng gỗ trắng. Bị năm cảnh binh đè ngửa ra giữ chặt, tên thứ sáu tháo giày nàng ra. Rồi thay phiên nhau, chúng lấy roi gân bò đánh vào gan bàn chân. Và những câu hỏi cũ lại được nhắc lại, nhưng lần này kèm với những lời chửi rủa và đe dọa.
    - Mày liên lạc với Barak Ben Canaan theo cách nào? - Những cán bộ tình báo trong hệ thống của mày là những ai? Tên họ của chúng là gì? Các địa điểm gặp gỡ ở đâu?
    Nỗi đau đớn rất ghê khiếp. Sarah đau quá không thể nói được nữa. Mồ hôi tầm tã, hàm răng xiết chặt, nàng kìm được những tiếng kêu rên. Lòng can đảm của nàng làm tụi Thổ điên giận hơn nữa. Chúng đánh mạnh gấp đôi: chưa chi chân nàng đã bị rách nát và máu ứa ra.
    - Mi có nói không, con Do Thái bẩn thỉu này! Nói đi thú đi, đàng nào rồi mi cũng chết!
    Nàng ngất đi và bị đổ cả một thùng nước vào mặt cho tỉnh. Tỉnh rồi, đòn tra tấn và các câu hỏi lại tiếp tục. Nàng lại xỉu nữa và rồi lại tỉnh dưới làn nước lạnh giá. Các cảnh binh đổi phương pháp, kéo dang hai tay nàng ra, nhét đá nóng bỏng vào dưới nách. Và các câu hỏi lại tiếp tục với các lời chửi rủa la hét...

    Chúng tra tấn nàng trong ba ngày ba đêm liên tiếp. Nàng không hé răng. Sau cùng, thán phục lòng can đảm ấy, chúng thả nàng ra. Ruth, trong suốt thời gian ấy đã cầu khẩn biện hộ cho Sarah ở bên ngoài, đưa chị dâu lên một chiếc xe do lừa kéo về Shoshanna.

    Chỉ mười ngày sau, khi cảm thấy cơn đau đẻ đầu tiên, Sarah mới để cho sự đau đớn bộc lộ. Tất cả những tiếng kêu đau đớn mà cảnh sát Thổ không làm nàng thốt ra được, bây giờ nàng kêu lên với một niềm tuyệt vọng. Rồi các tiếng kêu yếu dần. Trong kibbotuz, không một ai tin được nàng sẽ sống nổi.

    Nàng sinh ra một đứa con trai thật đẹp và mạnh khỏe. Nói cho đúng hơn, nàng ở giữa sự sống và chết trong rất nhiều tuần lễ. Nàng, một thiếu phụ bé nhỏ, từ miền xa xôi Silesie Barak, đã tiếp tục chống trả, đẩy lùi được bóng tối của cái chết.

    Thời kỳ hồi sức của nàng rất lâu, hết sức khó khăn. Sau nhiều tháng nàng có thể đứng lên nổi, và một thời gian nữa nàng mới có thể bước đi được với đôi chân bị tra tấn. Từ những thử thách khốn khổ ấy, nàng có một dáng đi khập khễnh không chữa khỏi được.

    Sau cùng, đến mùa xuân 1917, quân Anh đủ sức để mở các cuộc tấn công. Xuất phát từ các vị trí ở Ai Cập, họ đã đẩy lùi được quân Thổ, với nhiều thiệt hại nặng, qua bán đảo Sinai trước, rồi kế đó đuổi luôn được địch ra khỏi xứ Palestine. Trước đêm Noel một hôm, quân đội Anh tiến vào Jérusalem.

    Vài tháng sau Barak Ben Canaan cùng em là Akiba trở về xứ sở. Ngày mà hai anh em vượt qua hàng rào của Shoshanna, các bông hồng vừa nở giữa những thảm cỏ xanh tươi.

    Sarah đợi chồng trước căn nhà nhỏ mà ban quản trị nông trường đã cấp phát. Đã có những sợi bạc trắng trong bộ râu hung đỏ của Barak. Và mái tóc đen của Sarah cũng đã điểm một vài sợi bạc. Nhưng khi chàng ôm nàng vào trong tay, tất cả những khổ đau của bốn năm chiến tranh đều được tan biến. Sarah, vẫn nhỏ bé mảnh khảnh, nắm lấy tay ông chồng khổng lồ, khập khễnh dẫn chồng vào nhà. Trên giường, một đứa bé ba tuổi khỏe mạnh kháu khỉnh đang quay đầu lại ngó người lạ mặt.

    Barak quỳ gối và đưa hai tay mạnh mẽ bồng đứa bé đưa lên nói nhỏ :
    - Con tôi! Con trai của tôi!
    Sarah cúi xuống phía chàng :
    - Tên con là Ari...
    Bản tuyên ngôn Balfour được năm mươi nước phê chuẩn.

    Ở Palestine, cuộc khủng bố của Thổ đã thanh toán hết một nửa dân số Do Thái tại xứ này. Bên Trung Âu, các rối loạn thời hậu chiến đã làm cho các vụ pogrom gia tăng trở lại. Xét theo một chiều hướng nào đó thì hai hiện tượng đó bù trừ cho nhau: chạy trốn các vụ bạo hành, một đợt sóng di dân thứ ba đổ vào xứ Israel và bù đắp cho những người đã bị tàn sát ở Palestine.

    Một trong những hậu quả đầu tiên sự ủy trị của Anh quốc tại xứ này là việc hủy bỏ cấm mua đất cát do người Thổ trước kia ban hành để ngăn cản sự xâm nhập của Do Thái. Cơ quan Tài trợ Lập nghiệp của phong trào phục quốc lợi dụng cơ hội này để thực hiện một tham vọng ôm ấp từ nhiều năm: mua một vùng đất rộng trong thung lũng Jezreel bao gồm cả phần phía nam Galilée. Nhờ ở vụ mua đất này, lớn lao chưa từng có, mọi người có thể thành lập hàng loạt kibboutz mới.

    Sự kiện này gây ra cả một niềm hăng hái kỳ lạ. Từ khắp mọi nơi, các tay khai hoang cựu trào từ bỏ các tiện nghi đã đạt được một cách khó khăn trước đây để tới trợ giúp cho việc xây dựng các cộng đồng mới. Akiba và Ruth mang theo đứa con gái Sharona mới sinh, rời bỏ tiện nghi (tương đối, nhưng không thể chối cãi là có tiện nghi) ở Shoshanna để mang sức và kinh nghiệm của mình giúp cho một nhóm người sắp tới lập nghiệp ở phía bắc Rosh Pinna, trong một nông trường mang tên Ein Or (Suối ánh sáng).

    Trong thời gian ấy Tel-Aviv cùng các thành phố khác phát triển mạnh. Ở Haifa, người Do Thái bắt đầu mua nhà trên sườn núi Carmel. Ở Jérusalem, các nhà của họ xây cất đã vượt quá cái khung chật hẹp tạo bởi các tường thành cũ. Về phía người Anh, họ mở các con đường giao thông mới, thành lập các trường học, nhà thương, cải tổ các tòa án. Lord Balfour đích thân tới Jérusalem để đặt viên đá đầu tiên cho một Viện Đại học Do Thái trên ngọn Scopus.

    Để tiến hành nhanh thêm sự tiến đến thành lập một Quốc gia thực sự, các Do Thái ở Palestine bầu ra một ủy ban đại diện, được gọi là “Trung ương” một thứ chính quyền đặc trách việc điều đình với người Anh và người Ả Rập. Trong những nhân viên của ủy ban này, Barak Ben Canaan được hưởng một uy tín xứng đáng với quá khứ cũng như các đức tính cá nhân của mình.

    Nhưng chưa chi ma quỷ đã nhảy vào quậy phá. Không những còn xa mới được hưởng hòa bình mong ước, Palestine lại còn bị trở thành trung tâm cho một vụ tranh chấp quốc tế rộng lớn.

    Dấu hiệu mở đầu cho tranh chấp này, kỳ dị thay, lại do Cộng sản Nga, các chủ nhân ông mới của các nước Nga ban hành. Khám phá thấy trong văn khố của sa-hoàng bản văn thỏa ước bí mật Sykes-picots trong đó Pháp và Anh chia nhau Trung Đông, điện Kumlin cho đăng tải tài liệu đó để gây rắc rối cho Anh và Pháp.

    Mục đích này đã đạt được quá mức mong ước bởi vì thỏa hiệp trên mâu thuẫn quả tang với các lời hứa hẹn cho các dân Ả Rập độc lập của Anh Pháp. Trong các thủ đô Hồi giáo, các tiếng la ó vang lên dữ dội. Các biến cố xảy ra đã biện minh cho sự la ó này là đúng: tại hội nghị San Remo, Luân Đôn và Ba Lê chia cắt Trung Đông như cắt bánh. Người Pháp chiếm Syrie, kéo dài thêm bằng ống dẫn dầu từ các mỏ ở Mossoul tới, còn người Anh, họ chiếm phần sư tử bằng cách chiếm tất cả những gì còn lại. Nghĩa là một phần rất ngon lành.

    Một mặt là hai vương quốc bù nhìn: Irak, tên mới của xứ Mésopotamic, ngai vàng được trao cho Faycal, con của émir thành Mecque, để thưởng công cho đã điều khiển, hầu hết bằng mồm thôi, các bộ lạc Ả Rập nổi dậy chống lại quân Thổ; và Transjordanie, tạo ra bằng cách lấy một phần của Palestine (Luân Đôn cũng chẳng buồn xin phép Hội Quốc Liên về việc cắt xén này nữa), gán ghép với các phần đất khác rồi đem trao cho Abdullah, em của Faycal, kẻ cũng đang sốt ruột mong được hưởng phần thưởng vì đã giúp người Anh những công tác khó xác định - và có lẽ là không thể nào xác định nổi.

    Một mặt khác, Luân Đôn chiếm đóng trực tiếp Ai Cập và kênh Suez, Mossul với các giếng dầu, và Palestine, lãnh thổ được Hội Quốc Liên trao quyền ủy trị cho Anh. Đó là chưa kể cả chục “xứ bảo hộ” khác chung quanh bán đảo Arabie.

    Tuy vậy Paleitine đặt ra một vấn đề đặc biệt. Bản Tuyên ngôn Balfour đã được toàn thể thế giới chấp nhận, Luân Đôn không thể cưỡng buộc xứ đó phải chịu nhận một chính quyền theo ý Anh quốc được. Hơn nữa những điều khoản ủy trị đã bắt buộc nước Anh phải thành lập một Quê Nhà Do Thái. Nắm vững tình thế này, tiến sĩ Weizmann cùng các lãnh tụ phục quốc khác, trong đó có Barak Ben Canaan, đã điều đình thẳng luôn với Faycal, lúc đó là phát ngôn viên không ai chối cãi được của thế giới Hồi giáo. Các cuộc thương thuyết dẫn tới một hiệp ước thân thiện trong đó Do Thái cùng Ả Rập cùng chấp nhận sẽ tôn trọng những nguyện vọng của nhau. Phía Ả Rập công nhận các quyền về lịch sử của Do Thái ở Palestine, ngoài ra còn tuyên bố rõ ràng rằng văn minh, tinh thần chủ động cùng các vốn liếng do Do Thái mang tới đã đóng góp thuận lợi cho sự phát triển xứ này.

    Bây giờ, cần phải triệu tập “một hội nghị bàn tròn”. Nhưng không may là nếu phía Do Thái có được qua “Trung ương” một chế độ đại diện vừa dân chủ vừa được ủy nhiệm đủ quyền hành, thì phía Ả Rập, họ chỉ là một đám vô định hình hỗn độn. Một vài triều đại của các effendi ấy chỉ có thể nhân danh chính họ, nghĩa là cho một thiểu số rất nhỏ dân chúng mà thôi.

    Một trong những triều đại mạnh nhất loại đó, là gia tộc El Husseini, sở hữu chủ của rất nhiều địa hạt rộng lớn trong vùng Jérusalem. Tộc trưởng là Hadj Amine trước đây đã có dự tính lợi dụng sự sụp đổ của Đế quốc Thổ để chiếm lấy quyền hành ở Palestine. Để đạt tới mục tiêu này, ông xoay xở để được bổ nhiệm làm mufti Jérusalem, một địa vị mang lại cho ông hai phương diện hành động. Một mặt Jérusalem là thành phố thánh thứ ba của Hồi giáo, sau La Meeque và Medine, nên ông sẽ có thể lợi dụng các số tiền lớn quyên được khắp trong thế giới Hồi giáo để bảo vệ các thánh địa. Một mặt khác, trong một đại chúng thất học mù chữ tới chín mươi chín phần trăm, các bài giảng trong các buổi lễ là khí cụ duy nhất để tuyên truyền trong quần chúng. Dụng cụ càng nguy hiểm hơn nữa là vì các fellah có khuynh hướng trở thành điên rồ sau bất cứ kích thích nào.

    Dĩ nhiên là muốn làm mufti, cần phải là con cháu đích tôn của vị tiên tri xưa kia. Nhưng Hadj Amine không thắc mắc nhiều vì thế: ông cưới một cô gái thuộc giòng dõi Mahomet và tuyên bố rằng qua cuộc hôn nhân này, ông đã thực hiện được điều kiện nói trên.

    Tới đây, thì vị mufti già được gọi về chầu đấng Allah. Trong cuộc bầu cử người thay thế, Hadj Amine mà các tham vọng ai cũng biết, chỉ đứng hạng tư. Ông không chịu nhận thất bại vì thế: cả tộc bộ của ông, toàn các tay chuyên cắt gân người không, đã hoạt động tích cực đe dọa ba ứng cử viên trên đến nỗi cả ba đành rút lui thì hơn. Hadj Amine thắng cuộc bầu cử làm mufti chỉ vì các ứng viên khác không ai dám nhận chức.

    Đối với vị tân mufti này thì chướng ngại chính trên con đường dẫn tới quyền bính là cộng đồng các người khai hoang Do Thái. Phải tấn công đánh họ ngay. Ngày lễ mừng Đản sinh của Moise, ông đọc một bài giảng dữ dội chống lại người Do Thái. Đám đông quần chúng rách rưới nghèo đói nghe xong là nổi cơn điên lên ngay, thế là có pogrom.

    Dẫu sao cơn giận của quần chúng Ả Rập cũng không đủ mạnh để thúc đẩy họ đến chỗ tấn công các thành phố cùng các Kibboutz, nơi mà người Do Thái thừa đủ khả năng để tự bảo vệ. Dân Ả Rập thích tấn công các cộng đồng chính thống giáo ở Safed, Tibériade, Hébron và Jérusalem hơn, để tàn sát các cụ già vô phương chống cự.

    Ngày hôm đó Ruth cùng con gái Sharona lại có mặt ở Tibériade. Bị tràn ngập trong cơn sóng man rợ, cả hai mẹ con đều bị giết.

    Khi biết tin, Akiba chìm đắm trong tuyệt vọng hoàn toàn. Barak vội vàng tới Kidboutz Ein Or để đưa em về nhà mình ở Tel-Aviv. Trong nhiều tuần lễ, chàng và Barak phải canh chừng hai mươi bốn trên hai mươi bốn, sợ Aliba sẽ tự tử. Mất nhiều tháng, Akiba mới tỉnh lại được. Nhưng đau đớn để lại trong lòng chàng một vết sẹo không bao giờ lành được.

    Kể từ khi có chế độ ủy trị, đa số những cộng đồng Do Thái đã trao vũ khí cho các nhà cầm quyền Anh, kẻ chịu trách nhiệm duy trì trật tự. Bây giờ dân Do Thái đợi người Anh dẹp yên các vụ rối loạn và kết án những kẻ đầu tiên. Cao ủy Anh quả thực có chỉ định một ủy ban điều tra, ủy ban này đã quy trách cho Hadj Amine. Hadj Amine sau đó được... thứ lỗi!

    Vài ngày sau, Thuộc địa vụ tại Luân Đôn cho công bố một Bạch thư giới hạn sự nhập cảnh của người Do Thái xuống “một phân xuất phù hợp với khả năng hấp thụ về phương diện kinh tế của xứ sở”. Đó cũng là lúc Churchill chọn để cắt phân nửa lãnh thổ ủy trị để tạo ra Transjordanie. Đối với phong trào phục quốc Do Thái, đến đây là chấm dứt một thời kỳ, sự sụp đổ tan tành của cả một giấc mộng đẹp.

    Trong một buổi hội nghị bí mật triệu tập ở Tel-Aviv chừng năm mươi lãnh tụ phục quốc hiện diện. Có mặt: tiến sĩ Weizmann từ Luân Đôn tới, Barak Ben Canaan cùng em là Akiba, một người mang tên David Ben Gourion người thấp nhưng vai rộng, và một kẻ mang tên Avidar nào đó có thân thể vững chắc và đầu trọc lại làm người ta nhớ tới người chiến binh oai hùng đương sự đã từng trước kia trong quân đội sa-hoàng.

    Ngay lúc vừa mở đầu thảo luận, ba khuynh hướng khác nhau đã biểu lộ. Tiến sĩ Weizmann cùng các bạn ông thì cho rằng, vì người Anh là chức quyền duy nhất hợp pháp trong xứ, việc duy trì trật tự - trong trường hợp này, là dẹp yên các vụ rối loạn - phải là nhiệm vụ của quân lực Anh. Đối với nhóm thứ hai, chủ hòa cực đoan thì mọi nỗ lực võ trang người Do Thái đều sẽ bị dân Ả Rập coi như là khiêu khích họ. Còn các tay tích cực do Akiba đứng đầu thì họ chủ trương trả đũa chớp nhoáng và tàn nhẫn. Họ khẳng định rằng cảm tình cũng như sự bảo vệ của người Anh chỉ có trên giấy tờ, còn trên thực tế, người Anh chỉ hành động cho quyền lợi của họ. Còn đối với dân Ả Rập, thì không có một lý luận nào, kết án nào làm cho họ suy nghĩ hữu ích bằng một khẩu súng chĩa thẳng vào họ.

    Sau đó, các thảo luận sôi nổi kéo dài rất khuya trong đêm. Sau cùng, những kẻ ủng hộ một giải pháp vừa thực tế vừa thận trọng đã thắng thế. Đa số đã chấp thuận một đề án do Ben Gourion, Ben Canaan và Avidan đưa ra. Ba người này, vừa công nhận người Do Thái cần phải võ trang, vừa muốn củng cố lập trường Do Thái bằng những phương cách hợp pháp. Hậu quả là mọi người sẽ thành lập và huấn luyện một đoàn dân vệ bí mật hoàn toàn chỉ có mục đích tự vệ mà thôi. Các cơ cấu đại diện cho cộng đồng Do Thái, trên lập trường chính thức sẽ coi như không biết tới sự hiện hữu của đoàn này, nhưng khuyến khích đoàn một cách bí mật. Nhờ những trận chiến trong bóng tối như thế, ta sẽ dễ kiềm chế dân Ả Rập và điều đình với người Anh hơn.

    Quyết định sau cùng là bổ nhiệm Avidan vào chức vụ tư lệnh đoàn dân vệ sẽ được gọi là Haganah, hay Tự Vệ đoàn.

  6. Được cám ơn bởi:


  7. #43
    dominico_dung's Avatar

    Tuổi: 60
    Tham gia ngày: Nov 2007
    Tên Thánh: Dominico
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đàng trong
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,837
    Cám ơn
    6,848
    Được cám ơn 17,690 lần trong 2,615 bài viết

    Default

    Phần 2 - 10

    Đợt sóng đi cư thứ ba tiến vào các thung lũng Jezreel và Sharon, trải rộng trong vùng Samarie, len lõi vào giữa các quả đồi vùng Galilée và Judée, phiêu lưu xuống phía nam, hướng về sa mạc. Các người khai hoang mang theo tới tận nơi lập nghiệp các trang bị nặng, du nhập các nguyên tắc canh tác tăng cường và luân canh, các phân bón hóa học, dẫn thủy nhập điền trên một kích thước rộng lớn. Ngoài việc sản xuất truyền thống các bưởi bòng và ô-liu, họ trồng thêm lúa mì và rau cỏ, đây, nuôi gà và kỹ nghệ sữa. Họ tiến đến tận bờ Tử hải, chiếm các phần đất còn mặn muối biển, không thể trồng trọt gì nổi từ bốn mươi ngàn năm, để rồi vẫn cứ thu hoạch được hoa mầu từ phần đất đáng nguyền rủa đó.

    Năm 1925, hơn năm chục ngàn Do Thái, phân phối trong hàng trăm nông trường, đã khai thác hơn một nửa triệu dounam khai hoang được từ một xứ đã bị bỏ hoang phế từ lâu. Đa số trong họ đều mặc thứ y phục xanh da trời của các kibboutz. Họ đã trồng hơn một triệu cây. Trong mười, hai mươi, ba mươi năm nữa, những cây đó sẽ chiến thắng dứt khoát được hiện tượng đất đai bị sói mòn.

    Trồng cây đã trở thành một ám ảnh đối với những người khai hoang. Từ đầu đến cuối xứ sở họ vạch ra cả một vòng dai rộng xanh tươi.

    Rõ ràng là phong trào kibboutz, phát sinh từ các nhu cầu của xứ Palestine, đã là giải pháp cho vấn đề phục quốc. Nhất là các nông trường tập thể bây giờ đã đủ nhiều để hấp thụ được hàng ngàn người di cư tới sau. Dẫu sao cũng có nhiều người cảm thấy mình không thể thích ứng với loại đời sống này: nhiều người phụ nữ sau khi đi đòi được độc lập cho phụ nữ, đã hối tiếc là đã đòi được; nhiều kẻ quá cá nhân chủ nghĩa không thể chịu nổi đời sống quá tập thể, nhiều gia đình không đành lòng trao phó con cái cho nhà nuôi trẻ. Tuy vậy lý do khước từ chính yếu vẫn là sự kiện người khai hoang không sao đồng nhất mình nổi với khoảng đất mà họ có thể coi như sở hữu chủ. Vì thế sau cùng một nhóm ly khai đã tách ra khỏi phong trào kibboutz để thành lập một tổ chức xã hội mới gọi là moshav. Trong các nông trường moshav, mỗi người đều có đất riêng, canh tác riêng và ở nhà riêng. Nhưng mọi người vẫn duy trì quyền sở hữu tập thể cho các đồ trang bị nặng, cũng như duy trì một ban quản trị chung cho các dịch vụ công ích và mại mãi.

    Một buổi chiều năm 1924, trở về nhà sau một tuần lễ làm việc mệt nhoài ở “Trung ương” phục quốc, Barak ngạc nhiên thú vị khi thấy ngồi trong phòng khách ông bạn già Kammal, mouktar của làng Abou Yesha, Kammal nói :
    - Từ nhiều năm nay, tôi tuyệt vọng tìm kiếm một phương cách để giúp dân tôi ra khỏi các khốn cùng mà anh đã biết. Tôi là nhận thấy một điều hiển nhiên: chưa có ở nơi nào những kẻ bóc lột người tồi tệ hơn là các effendi Ả Rập. Họ không hề muốn cải thiện đời sống của các fellah... tiến bộ nào cũng có thể coi như đe dọa sự giàu sang phú quý của họ cả. Một mặt khác, tôi đã thấy những người Do Thái trở lại xứ này và làm được các phép mầu. Chúng tôi chắc chắn là không có gì chung với người Do Thái rồi: tôn giáo không, ngôn ngữ không, hình dáng bề ngoài cũng không nữa. Hơn nữa, tôi còn tự hỏi một ngày kia người Do Thái dám chiếm hết đất xứ này không biết chừng. Dầu thế, những người Do Thái lại là lối thoát khả dĩ duy nhất cho những người Ả Rập. Từ ngàn năm nay, người Do Thái là những kẻ duy nhất đã mang ánh sáng lại cho cái xứ cằn cỗi này.
    - Kammal, tôi hiểu anh khổ tâm đến mực nào khi thú nhận như thế...
    - Anh để tôi nói tiếp. Nếu Ả Rập và Do Thái có thể sống nổi với nhau hòa thuận mặc dù tất cả những gì đang chia rẽ chúng ta, thì người Ả Rập về lâu về dài sẽ được hưởng công trình người Do Thái đã thực hiện. Chính vì thế tôi đã có một quyết định trọng đại: tôi có ý định bán cho Quỹ Lập Nghiệp của các anh vùng đất ven hồ Honleh mà anh vẫn ao ước từ lâu đấy.
    Barak thấy tim mình nhảy nhanh hơn. Kammal nói tiếp :
    - Vụ bán này không hoàn toàn là do hảo tâm. Tôi sẽ đưa ra các điều kiện của tôi. Các anh phải cho phép dân Ả Rập làng tôi được học các phương pháp vệ sinh và canh tác của các anh. Các anh cũng phải chấp nhận cho vào trường các anh những đứa có khiếu nhất để chúng có được một nền học vấn tối thiểu.
    - Về hai điểm này, anh sẽ được thỏa mãn hoàn toàn.
    - Tôi chưa nói hết. Còn điều kiện thứ ba nữa: chính anh phải tới cư ngụ trong nông trường mới ấy.
    Barak vuốt râu :
    - Tôi? Tại sao phải là tôi?
    - Ngày nào anh còn ở với chúng tôi, tôi biết là các điều kiện trên sẽ được tôn trọng và chúng ta sẽ giữ được tình láng giềng tốt. Tôi tin ở anh ngay từ ngày đầu tiên anh tới Abou Yesha, khi anh còn là một chàng trai mới lớn. Nghĩa là cách đây hơn ba mươi năm rồi.
    Barak lầu nhầu :
    - Xin cám ơn anh. Nhưng anh để cho tôi thì giờ suy nghĩ đã.
    Sarah hỏi :
    - Mình định trả lời bác Kammal ra sao?
    Barak nhún vai :
    - Chắc chắn là trả lời không rồi. Thật đáng tiếc, dĩ nhiên... Trong biết bao nhiêu năm anh đã cầu xin bác ta ban cho chúng ta phần đất ấy, và bây giờ... nếu anh từ chối tới lập nghiệp ở đó thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ có được vùng đất ấy hết. Nhưng phải nhìn thẳng vào sự thực mới được. Ở trung ương, mọi người cần có anh. Anh chưa thể quy khứ lai từ được...
    Sarah tán thành :
    - Em hoàn toàn hiểu anh. Không có anh, tổ chức phục quốc sẽ ra sao nhỉ?
    - Vậy đó! Chưa kể đến sự kiện anh đã quá năm mươi rồi, và công tác khẩn hoang vùng đó sẽ là một cuộc đội đá vá trời...
    - Anh nghĩ phải đó. Không ai ở tuổi anh mà tình nguyện đi làm người khẩn hoang hết. Vả lại mình đã đóng góp đủ vào việc xây dựng xứ này rồi.
    Chàng thở dài, ngừng đi đi lại lại trong phòng, ngồi phịch xuống ghế bành. Sarah lại gần, nghiêng người về phía chồng. Nàng mỉm cười. Barah la :
    - Em, em đang chế nhạo anh. Vì cớ gì vậy!
    Nàng lướt nhẹ ngồi lên lòng chồng và Barah vuốt tóc nàng với một dáng điệu êm dịu không ai có thể ngờ là có được ở một người to lớn như chàng. Chàng nói nhỏ :
    - Anh chỉ nghĩ tới em, tới em và tới con. Công việc sẽ nặng nhọc lắm, đời sống khó khăn, hết sức khó khăn...
    - Im đi nào mình. Uống trà đi...
    Barak xin từ chức ở Quỹ Lập Nghiệp Do Thái, bán căn nhà đẹp ở Tel Aviv rồi đứng đầu hai mươi lăm gia đình khai hoang nữa, lên đường tới vùng đầm lầy Honleh. Chàng sẽ thành lập một moshav đặt tên Yad El, Bàn tay của Chúa.

    Họ dựng lều ở mạn dưới các cánh đồng của làng Abou Yesha và thiết lập một chương trình làm việc. Trong tất cả những người khai hoang này, chưa có ai đương đầu với một công cuộc gay go như thế bao giờ. Các đầm lầy Honleh không dò nổi, phủ đầy cả một rừng bụi rậm cùng các cây cao cả năm thước. Trong bùn lúc nhúc rắn độc, bò cạp, chuột. Trong các quả đồi chung quanh, đầy lợn lòi và chó sói. Đồ trang bị, dụng cụ, thực phẩm và cả đến nước uống cũng đều phải dùng lừa chở tới..

    Sarah điều khiển tại căn cứ, phòng y tế, bếp núc. Barak chỉ huy các ê-kíp ngày nào cũng như ngày nào, dưới ánh mặt trời tàn bạo, ngâm người đến tận thắt lưng và đôi khi đến tận vai vào nước hôi thối để đào những mương dẫn thủy đầu tiên. Đàn bà cùng làm việc với đàn ông, và ba đứa trẻ của nông trường, dưới quyền điều động của Ari Ben Canaan mới được mười tuổi lúc đó, lo việc mang đổ các thùng bùn và tiếp tế thức ăn. Mọi người làm việc bảy ngày trong một tuần, từ tinh sương đến mờ tối, và đêm đến lại còn phải thay phiên nhau gác vì có thú dữ và trộm cướp.

    Ngay từ lúc đầu, đã là một cuộc chạy đua với thời gian rồi: các mương dẫn thủy phải được hoàn tất trước khi mùa mưa tới, nếu không tất cả nỗ lực của mùa hè sẽ bị tiêu tùng hết. Mọi người trồng hàng trăm cây khuynh diệp Úc để chúng hút nước đi. Để trợ giúp cho các người khai hoang, các kibboutzmoshav đều gửi người đến giúp mỗi khi có thể được.

    Các cơn mưa đầu mùa đông suýt nữa cuốn trôi các lều. Sau mỗi trận mưa lớn, đàn ông đàn bà lại ùa ra để chữa các ống thoát nước bị bùn đóng nghẹt. Chưa chi, ngay cả đến Barak Ben Canaan, khối gân và bắp thịt ấy, cũng bắt đầu tự hỏi phải chăng lần này, họ đã không biết lượng sức mình. Mỗi khi nhìn vợ nhìn con mặt bị muỗi đốt sưng vù, yếu đi vì bệnh kiết, chàng có cảm tưởng như tim mình ứa máu. Nhưng thiên tai tồi tệ nhất, đó là bệnh sốt rét, bệnh của các đầm lầy. Trong sáu tháng đầu tiên, Sarah bị lên cơn sốt năm lần, Ari bốn và lần nào cũng tưởng là chết luôn. Dầu vậy không bao giờ họ than thở hay làm một biểu lộ nào chứng tỏ họ đã hối tiếc là đã tới nơi lam sơn chướng khí này.

    Tuy thế đầm lầy đã đập vỡ tan nhiều cương nghị. Sau một năm, một nửa nhóm người nguyên thủy đã bỏ cuộc và lên đường trở về thành phố để sống một cuộc đời đỡ vất vã hơn. Chưa chi nông trường đã có nghĩa trang: bệnh sốt rét đã mang đi hai người.

    Họ mất ba năm - ba năm chiến đấu không ngừng - để chiến thắng các đầm lầy. Sau thời gian này, các mặt đất đã đủ khô để đạc điền thành hai mươi lăm nông trại, mỗi trại hai mươi mẫu. Mọi ngươi không mất thì giờ để ăn mừng thành công đầu tiên này: cần phải gieo hạt ngay, xây cất nhà cửa và vựa lẫm.

    Ari, hoàn toàn chiến thắng bệnh sốt rét, đã trở thành cứng cáp như sỏi đá. Mới mươi bốn tuổi, chàng đã có sức mạnh cùng khả năng chịu đựng của một người lớn.

    Khi gia đình Ben Canaan đã dọn vào ở bungalow của mình, các đồng ruộng đã cày bừa xong, Barak được hưởng phần thưởng của ba năm cố gắng vượt sức con người: Sarah báo tin nàng lại có mang. Và đến cuối năm thứ tư, trong khi những khai hoang xay thóc mùa gặt đầu tiên ở Yad El, Sarah sinh đứa con thứ hai, một đứa con gái tóc óng ả, hung đỏ, giống hệt như tóc bố.

    Bây giờ sau hết mọi người có thể cho phép mình nghỉ ngơi vài ngày và ăn mừng chiến thắng kỳ diệu. Và quả là một vụ ăn mừng! Từ khắp vùng kéo tới những đàn ông đàn bà thuộc các kibboutz và moshav đã từng trợ giúp cho nông trường mới này, còn từ làng Abou Yesha tới là các người Ả Rập do Kammal hướng dẫn. Trong một tuần lễ liền, mọi người nhảy điệu hora quanh các đám lửa trại. Ai cũng muốn ngắm nghía bồng bế con gái của Sarah và Barak, được đặt tên là Jordana để tưởng nhớ con sông chảy dọc theo Yad El.

    Bỏ dở buổi lễ, Barak thắng yên hai con ngựa để đi cùng Ari lên chỗ mà bốn mươi năm về trước, chàng đã qua đó vào xứ Palestine. Đứng từ trên đồi cao, nhìn xuống thấy các cánh đồng, nhà cửa và các con đường của nông trường mới. Barak nói.
    - Bố đã đưa mẹ con tới đây trước khi cưới...
    Chàng vòng cánh tay ôm lấy đôi vai lực lưỡng của con.
    - Một ngày kia tất cả thung lũng này sẽ được khai hoang, đồng lầy và sỏi đá sẽ biến thành thiên đàng dưới thế.
    Các ống tưới nước tròn xoay tung ra một làn nước rẽ quạt. Một ngôi trường sắp làm xong ở giữa các thảm cỏ và các luống hồng. Một kho lẫm lớn chứa khoảng chục chiếc máy kéo và máy gặt. Chỉ có một vết đen duy nhất trong bức tranh tiến bộ hòa bình này, đó là nghĩa trang với dãy năm ngôi mộ.

    Các hy vọng của Kammal, mouktar của làng Abou Yesha không bị thất vọng: việc thành lập Yad El có những tác động thần diệu với đời sống dân làng ông. Trung thành với lời hứa, Barak đã cho thành lập các trường đặc biệt trong đó thanh thiếu niên Ả Rập được học những nguyên tắc vệ sinh tân tiến, cách sử dụng các nông cụ cơ giới, các phương pháp canh tác tăng cường. Cũng như viên y sĩ và nữ điều dưỡng của Yad El cũng phục vụ cho cả người Ả Rập.

    Đứa con cưng nhất của Kammal, Taha, trở thành người được gia đình Ben Canaan bảo trợ. Kammal đã truyền thụ lại cho Taha lý tưởng của mình: làm việc để cải thiện đời sống của các fellah. Đến nỗi rằng vị xã trưởng tương lai của Abou Yesha sống trong nông trường Do Thái nhiều hơn sống trong làng mình. Ari hơn Taha vài tuổi, đã kết bạn với Taha và đi đâu mọi người cũng thấy có hai người với nhau.

    Tuy vậy, cái minh chứng tỏ Do Thái và Ả Rập có thể sống và làm việc cạnh nhau trong hòa thuận này không làm hài lòng tất cả mọi người. Đa số những effendi giàu đã bắt đầu sợ hãi điều mà dưới mặt họ, là một cái gương tầy trời đáng lo. Các đặc quyền của họ rồi sẽ ra sao nếu các fellah đòi hỏi quyền được đi học, đòi có các cơ sở vệ sinh, săn sóc y khoa? Nếu họ nghĩ tới - ý tưởng ghê khiếp thay! - việc bắt chước những tên Do Thái đáng nguyền rủa kia, những kẻ cai trị nhau theo phương pháp dân chủ và cho cả đàn bà quyền bỏ phiếu? Như vậy chắc sẽ là sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ phong kiến phụng sự rất tốt - cho quyền lợi của các effendi!

    Để chống lại các tiến bộ của công cuộc khẩn hoang Do Thái, các effendi biết rằng họ có thể trông cậy ở sự ngu dốt, sợ hãi mê tín cùng lòng cuồng đạo của các nông dân Ả Rập. Mufti Hadj Amine, về phía ông, cũng nghĩ như thế. Dẫu sao ông cũng án binh bất động từ lâu quá rồi. Bây giờ, năm 1929, ông cho rằng đã đến lúc thuận tiện để hành động.

    Địa điểm có giáo đường Omar ở Jérusalem được toàn thể thế giới Hồi giáo sùng kính như là nơi vị tiên tri đã thăng thiên. Vậy mà cũng tại địa điểm này có Bức Tường Than Khóc nổi danh, di tích sau cùng của ngôi đền thờ lớn của Do Thái đã bị quân La Mã phá hủy vào năm 70 trước TL. Những người Do Thái sùng tín thường đến tưởng niệm trước tường, để cầu nguyện và khóc cho sự huy hoàng đã mất của Vương quốc Israel.

    Mufti Amine liền cho phổ biến các bức hình ngụy tạo trong đó mọi người thấy, trước Bức Tường Than Khóc những người Do Thái sắp sửa “báng bổ” thánh địa của giáo đường Omar. Cơn cuồng đạo của Hồi giáo lập tức bùng ra ngay. Dân chúng Ả Rập lại tấn công các ông già súng đạn vô phương tự vệ của các thành phố thánh, nhưng lần này các cuộc tàn sát đạt tới các tỷ lệ ghê gớm hơn các pogrom do chính mufti này tổ chức mười năm về trước nhiều. Các cuộc tàn sát cũng tràn đến cả một vài kibboutz nhỏ kém trang bị, nên con số người chết của hai bên lên tới nhiều nghìn người. Còn về người Anh, một lần nữa họ lại hầu như không sao phục hồi trật tự.

    Ngược lại, họ chỉ định một ủy ban điều tra. Ủy ban này, sau khi qui trách nhiệm cho người Ả Rập mà thôi, đi đưa tới một kết luận không ai ngờ: bất cần cả bản Tuyên ngôn Balfour lẫn các điều khoản trong bản văn ủy trị, ủy ban khuyến cáo nên hạn chế nghiêm khắc việc nhập nội của Do Thái cùng việc mua đất “để làm giảm sự lo ngại của người Ả Rập”.

  8. Được cám ơn bởi:


  9. #44
    dominico_dung's Avatar

    Tuổi: 60
    Tham gia ngày: Nov 2007
    Tên Thánh: Dominico
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đàng trong
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,837
    Cám ơn
    6,848
    Được cám ơn 17,690 lần trong 2,615 bài viết

    Default

    Phần 2 - 11

    Sáng hôm đó, Barak trao cho con trai việc mang lúa mì tới cối xay Aata ở làng Ả Rập cách đó chừng mười cây số. Sarah phản đối :
    - Tại sao anh lại nghĩ tới chuyện đó! Một đứa bé mười bốn tuổi... Với những biến cố đang xảy ra, các cạm bẫy trên đường đi...
    - Chính vì thế đấy! Cả con trai lẫn con gái tôi sẽ không có đứa nào suốt đời run lên như cầy sấy giống như dân Do Thái ghetto.
    Rất kiêu hãnh được bố tin cậy, Ari treo lên chiếc xe do lừa kéo, khởi hành đi Aata.

    Ngay khi Ari tiến vào làng, chừng mười tay du đãng Ả Rập quẩn quanh quanh quán cà-phê duy nhất ở nơi này đã nhận ra chàng rồi. Chúng chờ đợi cho tới khi xe Ari đã quẹo ở góc dường, mới kéo nhau đi theo tới tận máy xay. Ở bên trong, Ari, thạo tiếng Ả Rập, bàn cãi với chủ máy. Chàng muốn tự mình coi từ đầu tới chót để chắc chắn khi đã xay xong, chủ nhân phải đổ bột của mình vào các túi đựng bột của mình, chứ không phải đổ bậy bột lấy từ lúa mì Ả Rập tồi hơn rất nhiều. Chủ nhân rất lấy làm buồn vì hắn đã hy vọng tráo được mười hay hai mươi ký. Mọi việc xong xuôi, Ari lên đường trở về Yad El.

    Chàng vừa ra đi, các du đãng Ả Rập đã lại đề nghị với chủ máy xay một đề nghị hấp dẫn: chúng sẽ cướp lấy bột của Ari rồi bán lại với chủ nhân bằng giá rẻ. Chủ máy nhận lời ngay lập tức, các du đãng rời làng bằng một con đường tắt, vội vã dựng một ụ đá chặn một cuối dốc.

    Một vài phút sau Ari đâm đầu vào bẫy. Khi những viên đá đầu tiên ném ra như mưa, chàng quất mạnh roi thúc lừa cho chạy nhanh hơn để rồi phút sau đâm đầu vào hàng rào đá cản. Một viên đá ném trúng ngay đầu làm choáng váng, ngã gục xuống. Bốn du đãng lao ra đè chặt cứng chàng xuống đất trong khi những đứa còn lại chuyển các túi bột xuống xe mang đi.

    Đến khuya Ari mới trở về được Yad El.

    Chính Sarah ra mở cửa. Khi nhìn thấy mặt Ari đầy máu, quần áo tả tơi, bà hét lên. Răng xiết chặt, Ari đi thẳng lên phòng riêng đóng cửa lại khóa chặt. Chàng chỉ chịu xuống khi bố đã đi dự một buổi họp của moshav về. Chàng cố gắng nói rõ từng tiếng mặc dù môi sưng vù rướm máu :
    - Con đã phụ lòng tin của bố. Con đã để mất bột rồi.
    Barak phản đối :
    - Chính bố mới đáng trách. Chỉ bố đáng trách thôi.
    Sarah chạy ra ôm con vào lòng :
    - Anh nghe đây, không bao giờ anh được gửi con đi một mình nữa... Không bao giờ...
    Barak không trả lời. Nhưng sáng hôm sau ông đưa Ari vào vựa thóc, nói :
    - Bố đã quên không dạy con về một vài phương diện...
    Ông lấy chiếc roi da cũ ra, tay một thứ hình nhân đưa ra cắm ở bờ rào. Ông cắt nghĩa rất lâu cho con ước lượng xa gần, nhắm và đánh như thế nào. Nghe thấy tiếng kêu réo đầu tiên, Sarah ôm bé gái Jordana chạy lại :
    - Anh điên sao anh? Dạy cho đứa bé đáng thương này cách xử dụng roi da... anh điên thật rồi đó anh!
    Lần đầu tiên từ hai mươi năm lấy chồng, Sarah thấy sợ hãi chồng. Barak gầm lên :
    - Bà im đi! Con trai của Barak Ben Canaan là một con người tự do! Nó sẽ không bao giờ là một Do Thái ghetto hết. Rồi, bây giờ bà đi chỗ khác cho, đàn ông chúng tôi không muốn mất thì giờ với các lời lèm bèm của đàn bà!
    Đây quả là một vụ huấn luyện đến nơi đến chốn. Từ sáng đến chiều Ari tập dượt không ngừng. Hình nhân bị đánh nát tan từng mảnh, chàng lấy đích là các hòn đá, các vỏ đồ hộp, chai lọ, tập cho tới khi chàng chỉ vung tay lên một lần là đánh trúng được. Tối đến, chàng không đủ sức để giơ tay lên nữa.

    Sau nửa tháng, Barah lại xếp mười hai túi lúa mì rồi lên xe lừa.
    - Mang đến máy xay Aata, xay thành bột. Đừng có quên chiếc roi da. Nhưng con phải nhớ điều này: con không có quyền dùng roi vì tức giận hay để trả thù, con chỉ được dùng nó để tự vệ mà thôi.
    Khi chiếc xe lên đường Sarah chạy vào phòng riêng, nằm gục xuống giường khóc nức nở. Barah, ông làm điều ông đã bao nhiêu năm nay không làm: ngồi trong chiếc ghế bành ưa thích nhất, ông đọc Thánh Kinh.

    Khi rời Aata về, Ari lại rơi vào ổ phục kích cũng vẫn do tụi du đãng ấy tổ chức. Nhưng lần này chàng đề phòng rồi. Ngay khi các viên đá đầu tiên rơi xuống gần xe, chàng phóng ngay xuống đất đi lùng tên chúa đảng, tay cầm roi da. Vù một cái, sợi da dài đã quấn quanh thân tên Ả Rập, nâng bổng hắn lên, quật xuống đất. Ngay lập tức Ari gỡ roi ra và đánh một nhát thứ hai xuống làm tung da thịt. Mười giây sau, chàng làm chủ chiến trường.

    Ở Yad El, Barak bắt đầu lo ngại: hoàng hôn xuống rồi và Ari chưa trở về. Sau cùng, ông thấy chiếc xe xuất hiện trên đường. Ông bình tĩnh uể oải tiến ra bờ rào :
    - Thế nào Ari! Mọi sự ra sao?
    - Tốt đẹp lắm bố.
    - Để bố mang các túi bột xuống. Con phải lên thăm mẹ ngay. Mẹ con đang lo lắng lắm, bố cũng chẳng hiểu rõ tại sao...
    Năm 1930, các rối loạn đã gần như ngừng hẳn. Vả lại đa số các làng Ả Rập thoát khỏi ảnh hưởng của mufti, đã khước từ tham gia vào các vụ rối loạn đó.

    Ari Ben Canaan càng ngày càng giống bố. Cũng cao lớn, khỏe mạnh như Barak, chàng cũng thừa hưởng tính bình tĩnh cùng lòng bướng bỉnh lạnh lùng của bố.. Hoàn toàn tin rằng một sự sống chung hòa thuận thành thật với người Ả Rập có thể có được, chàng vẫn có bạn thân là Taha, con trai của mouktar làng Abou Yesha.

    Từ vài tháng nay, chàng yêu cô gái con trại chủ lân cận. Và nàng Dafna cũng chỉ để mắt tới chàng, tất cả mọi người đều tin chắc hai người sẽ lấy nhau trong vài năm tới. Khi ấy hai người sẽ là đôi lứa điển hình cho thế hệ mới của Palestine, thế hệ sinh trưởng ở trong xứ. Ngay từ bây giờ, Ari, mười lăm tuổi, đã là đoàn viên Haganah, đoàn dân vệ, và Dafna, mười ba tuổi, đã biết xử dụng năm sáu thứ vũ khí khác nhau. Cả hai đều kiêu hãnh khỏe mạnh và ý thức rõ nhiệm vụ định mệnh đã trao phó cho mình.

    Một thời gian sau khi các vụ rối loạn chấm dứt, vị mufti, được sự của người Anh khuyến khích, âm thầm cho triệu tập một đại hội quốc tế Hồi giáo. Trước rất nhiều đại diện đã tới Jérusalem, ông tuyên bố thành lập một Liên bang (dĩ nhiên do ông chỉ huy) và tuyên bố quyết định cứu Hồi giáo khỏi nỗi hiểm nguy là người Anh và Do Thái.

    Mới nhìn thoáng qua, tưởng chừng các lời lộng ngôn của các chính khách mị dân Ả Rập sẽ không có hiệu quả thực tế nào, nhất là bây giờ đoàn Haganah đã đủ mạnh để hãm bớt sự hăng hái của mufti cùng thủ hạ. Tuy thế, ngay từ 1933, tình hình mỗi lúc một nghiêm trọng hơn vì sự kiện Hitler cùng đảng Quốc Xã lên cầm quyền ở bên Đức. Trước viễn ảnh một đợt sóng di cư mới cùng lời đe dọa sẽ tổng đình công của người Ả Rập (để phản đối đợt di cư nếu có ấy), người Anh quyết định áp dụng các khuyến cáo của ủy ban điều tra: giới hạn số chiếu khán cấp phát và việc mua đất của các tổ chức Do Thái. Cũng vì thế, ngay vào lúc hàng chục ngàn người Do Thái Âu châu tìm kiếm tuyệt vọng một quốc gia nhận cho mình tị nạn, thì Anh quốc, để quên lãng lời hứa, đã đóng cửa các biên thùy của Palestine.

    Dân Do Thái, qua trung gian là Haganah, phản ứng lại bằng phương sách hoạt động duy nhất còn lại: xử dụng các tay phá phong tỏa của tổ chức Mossad Aliyabet. Nhưng không may là vị mufti, xử dụng không biết xấu hổ một thứ áp lực gần như là xăng-ta, tranh đấu hăng hái đến nỗi người Anh sau cùng đành trao phó cho Hải quân Anh nhiệm vụ ngăn chặn các tàu của Mossad. Mufti hết sức mừng rỡ, không những vì người Anh cố gắng tối đa để ông khỏi bị vất vả gì hết, mà còn tìm thấy ở Hitler một bạn đồng minh mạnh không ngờ đến. Nuôi nhiều tham vọng lớn trong vùng Trung Đông Đức coi vị mufti này như một tay tuyên truyền rất tốt. Ở Caire và Damas, tiền bạc quốc xã tung ra như suối. Hỡi những người Ả Rập, Đức quốc là bạn của các bạn! Đất Ả Rập của người Ả Rập! Hãy tống cổ tụi Anh và đồng bọn Do Thái ra ngoài!

    Trước cơn bão tố sắp sửa xảy ra, cộng đồng Do Thái Palestine chỉ có một lợi điểm, nhưng đáng kể: Haganah với hai mươi lăm ngàn nam nữ tổ chức được một đoàn dân quân do chừng hai mươi lăm đến ba mươi “sĩ quan chuyên nghiệp” chỉ huy, một cơ quan phản tình báo hết sức hiệu lực, trông cậy sự hợp tác thành thật của nhiều quân nhân Anh, và nương dựa vào sự tham nhũng tiền bạc đến mức độ mua chuộc dễ người Ả Rập. Mỗi thành phố, mỗi làng, và đến từng kibboutz; và moshav nhỏ nhất, cũng đều có các đơn vị dân vệ. Nhờ một bản mật mã, tư lệnh Haganah trong khoảng thời gian vài phút, có thể động viên hàng trăm nam nữ đến những nơi tồn trữ súng giấu diếm rải rác khắp xứ.

    Mua từ khắp trên thế giới, các vũ khí được nhập nội Palestine bằng cả trăm ngàn phương cách khác nhau. Thí dụ như trong xe hủ lô chẳng hạn: một hủ lô thôi có thể chứa dễ dàng trăm khẩu carbine. Còn về đạn dược, mọi người giấu trong các kiện hàng, đồ hộp ngay cả tới trong các chai rượu vang nữa. Người Anh chỉ có thể ngăn chặn sự nhập nội bất hợp pháp này bằng cách kiểm soát tất cả các món hàng nhập cảng, nhưng làm như thế là hóa ra đình chỉ nhập cảng luôn. Và hơn nữa vì nhiều người Anh sẵn lòng quay mặt đi chỗ khác khi thấy một kiện hàng khả nghi...

    Tuy vậy, mặc dù sự tham dự tích cực của dân chúng Do Thái, hiển nhiên là việc nhập cảng lậu không cho phép đưa vào các vũ khí nặng cùng số vũ khí tối tân đủ dùng cho cá nhân. Đa số các vụ mua súng ở ngoại quốc đều chỉ là súng trường, carbine, súng lục biến cải hay cổ lỗ. Không có một kho vũ khí nào trên thế giới lại linh tinh tạp nham cho bằng kho vũ khí của Haganah. Để chấn chỉnh một phần nào tình trạng này, các cơ xưởng chế tạo vũ khí lậu được thành lập ngay ở Palestine để chế tạo các loại súng cối, đại liên, trung liên và lựu đạn. Còn về chỗ giấu, không thành vấn đề, một khi vũ khí đã được nhập nội rồi, bất cứ ngăn kéo, tủ lạnh, giường tủ nào cũng có thể giấu được vài ba khẩu, chưa kể các sàn nhà, cửa giả hay tường rỗng. Còn về vấn đề chuyên chở, mọi người cũng không khó tính. Các vũ khí đi “phiêu du” trong các bánh xe sơ-cua của xe vận tải, ở dưới các cần xé thực phẩm, các xọt chồng chất trên xe lừa. Và biết người Anh tính e thẹn, Hagana không ngần ngại trao vũ khí cho đàn bà giấu dưới váy mang đi.

    Còn lại vấn đề huấn luyện quân sĩ. Trong địa hạt này cũng như trong việc khai hoang, chính các kibboutz đã giải quyết được nhờ ở cơ cấu tổ chức cộng đồng của họ. Không có gì dễ cho bằng gửi hai mươi hay ba mươi quân nhân trẻ trà trộn vào bốn trăm năm trăm người trong một nông trường, lập các kho giấu vũ khí chính tại đó, cũng như thiết lập các công binh xưởng bí mật. Và đa số các cấp chỉ huy của Haganah cũng đều xuất phát từ các kibboutz.

    Tất cả các tổ chức này, do Avidan thực hiện trước mũi người Anh, rút sức mạnh từ sự kiện là không một người Do Thái nào nghĩ tới việc phủ nhận quyền bính của ông hết. Người ta không bàn cãi một mệnh lệnh của Haganah, ngươi ta chỉ thi hành thôi. Tuy thế, ở trong Bộ Tư lệnh, lại có những chia rẽ quan trọng. Đối với Avidan và các cấp chỉ huy cựu trào, Haganah chỉ xử dụng tới võ lực khi cần tự vệ mà thôi. Sự dè dặt này mỗi ngày càng làm khó chịu phe tích cực ủng hộ việc trả đũa chớp nhoáng mỗi khi có bất cứ khiêu khích nào. Trong số những người thuộc thành phần này, Akiba - chính thức ra chỉ là một người làm nghề chăn nuôi khiêm tốn ở kibbotz Ein Or, không chính thức ra thì là kẻ đặc trách quân sự tỉnh Galilée - có một uy tín lớn đối với một số đàn em. Khi người Anh công bố phong tỏa bờ biển Palestine, Akiba cho rằng thời kỳ cũ xưa đã qua rồi. Ông tụ họp một số người đồng quan điểm, và các tay nổi loạn này đã có một quyết định làm rung chuyển cộng đồng Do Thái.

    Mùa xuân 1934, Barak Ben Canaan được Avidan yêu cầu tới gặp Bộ Tư lệnh của Haganah đặt tại Jérusalem.
    - Một tai họa xảy đến cho chúng ta, Barak. Akiba đã rời khỏi Haganah, lôi cuốn theo nhiều đơn vị trưởng tài ba nhất của chúng ta. Và hàng trăm dân vệ khác cũng sắp noi gương Akiba.
    Barak thốt lên một tiếng thở dài.
    - Chúng ta chờ chuyện đó xảy ra chứ: Akiba nói tới việc này từ nhiều năm rồi. Tôi chỉ ngạc nhiên là tại sao chú ấy có thể chịu nhịn được cho tới giờ phút này. Chú ấy uất ức kể từ ngày ông cụ chúng tôi bị bọn học sinh trung học ở Jitomir giết chết. Và chú cũng chưa bao giờ quên được vụ vợ con bị giết.
    Avidan nhún đôi vai u :
    - Anh cũng biết là một nửa công việc của tôi trong Haganah là kìm bớt tính sốt ruột điên rồ của các người trẻ. Nếu chúng ta để cho họ làm theo ý muốn, ngay ngày mai họ sẽ tuyên bố khai chiến với Đế quốc Anh! Các tính tình của anh, của tôi, của Akiba chắc chắn đều giống nhau như hệt, nhưng ông em anh dám phá hủy công cuộc của chúng ta. Một trong những lý do cắt nghĩa tại sao cho tới giờ phút này chúng ta đã làm được bao nhiều là việc đó chính là thứ mặt trận thống nhất chúng ta đưa ra đương đầu với địch, mặc dù các bất đồng bên trong. Bây giờ Akiba và các thành phần tích cực quá đáng ấy sẽ làm vỡ sự thống nhất. Nếu họ tung ra các hoạt động đặc công, tất cả cộng đồng Do Thái sẽ lãnh đủ hết.
    Barak rời Jérusalem để tới Ein Or. Nông trường này, như mọi kibboutz đã thành lập được lâu, trông như cả một khu vườn. Với tư cách cựu trào, Akiba được sống riêng biệt trong một nhà riêng hai phòng đầy những sách. Ông cũng còn quyền, hết sức là đặc biệt, có riêng một máy phát thanh. Trong khung cảnh yêu dấu, Akiba có thể sung sướng nếu ông đã tìm cách giải thoát khỏi bóng ma ám ảnh của vợ và con đã bị giết chết.

    Ngay từ những lời nói đầu tiên của Barak, Akiba đã lộ rõ một vẻ nóng nảy giận dữ. Hiển nhiên là ông sợ vụ phải cắt nghĩa trình bày này với anh ruột.
    - Tôi thấy là quý ông trong Trung ương đã gửi anh tới đây để nước mắt ngắn dài với tôi. Tại sao mấy ông bự đó không thân chinh lại đây? Mấy ông đó hẳn rất thạo nghệ trong việc xoa dịu thiên hạ mà.
    Barak trả lời :
    - Tôi vẫn cứ lại đây dầu họ không yêu cầu. Ngay từ lúc tôi biết chuyện điên rồ của chú....
    - Điên rồ? Tôi chỉ làm những gì mà Trung ương sợ không dám làm thôi. Nhưng sớm hay muộn, ngay mấy ông giáo chủ quá thận trọng với bất cứ giá nào đó cũng sẽ bắt buộc phải nhìn thẳng vào thực tại. Người Anh là kẻ thù của chúng ta....
    - Tôi không tin thế chút nào, chú Akiba. Xét chung, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp dưới triều đại của người Anh. Dầu thế nào người Anh cũng là chính quyền hợp pháp ở Palestine.
    Akiba mỉa mai :
    - Một chánh quyền sẵn sàng cắt cổ chúng ta. Những quý vị hào hoa phong nhã trong Trung ương đi hết từ hội nghị này sang hội nghị khác, một cái cặp đầy căng giấy tờ cắp nách, đọc các bài diễn văn, cúi mình chào và cười cười, trong khi tên mufti cùng các tay sát nhân của hắn tự do hành động. Anh có thấy tại Ả Rập chịu điều đình với chúng ta không?
    - Chúng ta vẫn tiếp tục các mục tiêu của chúng ta bằng các con đường hợp pháp.
    - Chúng ta chỉ có thể đạt tới các mục tiêu đó nếu chúng ta chiến đấu thôi!
    - Cứ cho là thế đi! Nhưng nếu chúng ta bắt buộc phải chiến đấu, thì chúng ta hãy cùng tiến bước dưới cùng một lá cờ. Chú, khi chú thành lập đoàn quân ngoài vòng pháp luật như thế, chú tự xếp chú ngang hàng với tên mufti. Chú có bao giờ nghĩ tới các hậu quả do sự ra khỏi Palestine của người Anh sẽ mang lại không? Dù sự chua chát của chú (và cả của tôi nữa) có lớn tới đâu đi nữa, thì người Anh vẫn còn là may mắn lớn nhất cho chúng ta để đạt tới qui chế Quốc gia một ngày kia.
    - Chúng ta sẽ trở thành một quốc gia theo cùng cách thế chúng ta đã khai hoang: bằng mồ hôi và bằng máu của chúng ta. Về phần tôi, tôi chán ngồi móc meo trong cái xó này đợi người Anh ném cho chúng ta hạt cơm thừa miếng canh cặn.
    Barak phải cố gắng mới kiềm chế nổi mình :
    - Chú Akiba, lần chót tôi yêu cầu chú đừng làm như thế. Làm vậy chú chỉ mang lại cho kẻ địch của chúng ta cơ hội để bôi nhọ vu cáo chúng ta thêm mà thôi...
    Akiba kêu lên :.
    - À, vậy thế hả! Sau cùng, chúng ta đã đến tận cùng của vấn đề rồi đây. Bao giờ cũng cái bản nhạc cũ rích ấy hả? Một Do Thái phải tuân theo “luật chơi”, một Do Thái thì phải cầu xin, phải kêu gọi tới tình nhân đạo, một Do Thái là phải giơ má ra...
    - Chú im đi!
    Akiba hét lên :
    - Tôi không im! Các anh ấy à, các anh chỉ có mỗi một nguyên tắc thôi: chúng ta làm gì thì làm nhưng đừng có chiến đấu. Tụi Đức, tụi Ả Rập, Anh coi các anh như các đứa trẻ con thiếu giáo dục cũng là quá ghê rồi.
    - Tôi nói với chú là chú im đi.
    - Thật thế hả? Anh Barak, anh là cái đồ Do Thái ghetto... các anh là thế đấy, cả các quý vị trong Trung ương nữa. Này đây, ông anh yêu quý của tôi nghe đây, tôi, tôi có thể lầm lẫn, nhưng tôi muốn sống. Mặc kệ tất cả thế giới có cho ước muốn này của tôi có là sai lầm chăng nữa!
    Bây giờ đến lượt Barak run lên vì tức giận. Ông đứng dậy, giận dữ, căng thẳng, tiến ra phía cửa. Đằng sau ông, Akiba tiếp tục thốt hết ra những hận thù :
    - Anh hãy nói với tất cả các kẻ chuộng ăn nói rằng Akiba cùng các Macchabée (Thây ma) có một thông điệp xin gởi tới người Anh cùng Ả Rập: “Mắt đổi mắt, răng đổi răng!”
    Đứng trên ngưỡng cửa, Barak quay đầu lại :
    - Thế đủ rồi! Từ giờ chú không được đặt chân vào nhà tôi nữa, không bao giờ.
    Akiba sững người. Môi ông bắt đầu run lên, mắt mờ đi, nói nhỏ, không tin :
    - Không bao giờ được đặt chân vào nhà anh? Anh Barak, coi kìa, chúng ta là anh em... Anh đã mang tôi trên lưng từ Nga về Palestine này...
    - ... Để ngày nay hối tiếc đã làm như thế.
    - Vậy anh muốn kết tội tôi chỉ vì tôi hành động theo lương tâm tôi?
    Nhìn thấy Barak đặt tay lên chốt cửa, Akiba đột nhiên lại tức giận :
    - Barak Ben Canaan, anh nghe lời chót đây: Không một hành động nào của chúng ta, dù cao quý hay bất xứng, lại có thể nặng nề cho bằng những hành động thiên hạ đã làm đối với dân tộc Do Thái. Ngày mai đây, cho rằng các Macchabée có nổi điên lên nữa đi nữa, thì thử hỏi mọi người lấy quyền gì mà trách cứ một khi dân tộc Do Thái đã bị hành hạ suốt hai ngàn năm?








    HẾT!

  10. Được cám ơn bởi:


  11. #45
    dominico_dung's Avatar

    Tuổi: 60
    Tham gia ngày: Nov 2007
    Tên Thánh: Dominico
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đàng trong
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,837
    Cám ơn
    6,848
    Được cám ơn 17,690 lần trong 2,615 bài viết

    Default

    SƠ LƯỢC VỀ DỊCH GIẢ
    NHÀ VĂN THẾ UYÊN
    • Tên Thật Nguyễn Kim Dũng. Sinh năm 1935 tại Hà Nội. Vào Nam năm 1954. Định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1987.
    • Tác phẩm đã in: có 21 tác phẩm in trước năm 1975 như Những Hạt Cát (1964), Mưa Trong Sương (1964), Ngoài Đêm (1965), Mười Ngày Phép Của Một Người Lính (1965), Nỗi Chết Không Rời (cùng anh là Duy Lam), Những Ý Nghĩ Của Bọt Biển (1966), Tiền Đồn (1967), Nghĩ Trong Một Xã Hội Tan Rã (1967), Bản Tình Ca (1968)....
    • Những tác phẩm in tại hải ngoại: Sài Gòn Sau 12 Năm, Con Đường Qua Mùa Đông, Nghĩ Trong Mùa Xuân, Tuyển Tập Truyện Ngắn Thế Uyên, Tuyển Tập Dâm Tình Và Các Nhà Văn Nữ Hoa Kỳ, Khu Vườn Mùa Mưa, Những Người Mỹ Chung Quanh Chúng Ta.

    Nhà văn Thế Uyên hiện đang cư ngụ ở Seattle. Nhà văn Thế Uyên, tên thật là Nguyễn Kim Dũng sinh năm 1935 tại Bắc Phần trong một gia đình có truyền thống văn học. Mẹ ông là em ruột nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, và là chị ruột nhà văn Thạch Lam.

    Nói một cách khác, nhà văn Thế Uyên và ngưòi anh ruột của ông là nhà văn Duy Lam đã được ươm bằng chữ nghĩa, ngay từ khi còn trong trứng nước, do đó ngưòi ta không lạ khi vừa qua tuổi hai mươi, bút hiệu Thế Uyên đã hiện diện trong làng báo, và chỉ một thời gian ngắn sau đó, ông là ngưòi sáng lập tạp chí Thái Độ, như là một điểm khởi hành mới trong hành trình chữ nghĩa cho chính bản thân ông.


  12. Có 2 người cám ơn dominico_dung vì bài này:


  13. #46
    dominico_dung's Avatar

    Tuổi: 60
    Tham gia ngày: Nov 2007
    Tên Thánh: Dominico
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đàng trong
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,837
    Cám ơn
    6,848
    Được cám ơn 17,690 lần trong 2,615 bài viết

    Default





  14. Được cám ơn bởi:


  15. #47
    teenvnlabido's Avatar

    Tham gia ngày: May 2011
    Tên Thánh: Giuse
    Giới tính: Nam
    Đến từ: HCM city
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 927
    Cám ơn
    1,503
    Được cám ơn 2,005 lần trong 603 bài viết

    Default

    Tác phẩm Exodus của Leon Uris đã từng nổi danh một thời, và đã được dựng thành phim mang tên Việt là VỀ MIỀN ĐẤT HỨA.

    Phim EXODUS cũng đã có nhưng không có phụ đề Việt, còn tác phẩm thì đã được nhà văn Thế Uyên Nguyễn Kim Dũng dịch sang tiếng Việt từ trước năm 1975. Có điều nhiều người trên một số diễn đàn đã than rằng sự dịch thuật đã không thể hiện được nội dung phong phú của nguyên tác. Nhưng việc đó chúng ta không dám trách vì ông gần như là người duy nhất vào thời điểm ấy đã có công mang tác phẩm nổi tiếng này đến cho độc giả Việt Nam. Nhưng điều làm cho rất nhiều người thất vọng đó là bản dịch mà vnthuquan.net đã đăng lên gần như có một nửa so với nguyên bản.

    Tất nhiên điều này không dám ý kiến gì với những vị đã mất bao nhiêu công sức chuyển tác phẩm từ văn giấy thành ebook, nhưng không hiểu tại sao dịch giả lại không dịch cho trọn vẹn hết nguyên tác?

    Trong nguyên bản EXODUS bằng tiếng Anh, tất cả gồm có 5 tập là:
    BOOK 1 - Beyond Jordan
    BOOK 2 - The Land Is Mine
    BOOK 3 - An Eye for an Eye
    BOOK 4 - Awake in Glory
    BOOK 5 - With Wings as Eagles

    Không biết ebook ở vnthuquan.net chẳng hiểu đã lấy nguyên mẫu từ nhà văn Thế uyên hay một ai khác mà gần như cụt hẳn một nửa. Tự nhiên kết thúc một cách ngang xương!

    Ai cũng biết tác phẩm “Những người khốn khổ” của Victor Hugo là một tác phẩm bất hủ. Nó hay ở chỗ ông Hugo nói rất tỉ mỉ từng sự kiện và từng tâm lý nhân vật. Chẳng hạn có đoạn lão già Giăng van Giăng bị một thanh niên to khỏe Mong pa nát chịt cổ để trấn lột. Nhưng không ngờ kẻ bị trấn lột lại có dư sức khỏe để còng tay tên cướp trẻ tuổi khỏe mạnh. Và sau đó là ông già Giăng van Giang đã giảng thuyết cho tên cướp cạn ấy một bài học làm người tốt thì dễ hơn làm người xấu dài hơn hai trang giấy.

    Không hiểu từ đâu lại mọc ra cái gọi là ”bản rút gọn”! Những tác phẩm nổi tiếng bị cho là dài quá và rút gọn lại đến nỗi chẳng còn ra cái hồn, cái ý mà tác giả tốn biết bao công lao để gởi đến người đọc! Bây giờ muốn tìm lại những bản trọn vẹn của “Căn lều bác Tom, NHững người khốn khổ, Không gia đình…” thì thật là khó khăn và gần như chưa tìm được! Có lẽ vì thời bây giờ người ta chỉ chuộng cái lối văn chat chít tôi làm một câu anh làm một câu, cho nên những bài viết dài một tí là họ không thể chấp nhận và không thể hiểu chăng?

    Tôi nhớ rằng hồi nhỏ mình đã đọc được cuốn Về Miền đất Hứa này có lẽ là rất đầy đủ chứ không như bản của vnthuquan.net. Cái kết thúc của tác phẩm này hình như là ông Ari hay một nhân vật đáng trọng nào đó than vãn rằng tại sao người ta lại không muốn cho dân tộc Do thái được sống yên hàn …sau khi đã nêu ra biết bao thiện chí của một dân tộc bé nhỏ muốn tụ họp lại trên mảnh đất đã được Thiên Chúa hứa ban từ thời ông Môi se.

    Tôi đã mò tìm trên mạng một số ngày và biết được rằng tác phẩm Về miền đất hứa này cũng được dịch giả Dương văn Mua dịch đầy đủ và có giới thiệu nhà sách Khai Tâm có bán, nhưng tôi đã điện thoại cho họ và trả lời không còn hoặc không có hàng!

    Chính vì thế tôi lại phải đánh vật một khoảng thời gian nữa để tìm tác phẩm EXODUS bằng tiếng anh, bởi vì rất nhiều trang cho download nhưng đòi phí hơn hai chục đô! Hôm nay tôi xin post lên để mong những người có đủ tài sức cũng như thời gian làm ơn dịch giúp sang tiếng Việt để tất cả mọi người chúng ta đều được cậy nhờ.

    http://www.mediafire.com/download.php?1brepg6ohs6ab6z Ebook EXODUS

    http://www.mediafire.com/?kb63bagr25hrvql video bài ca phim EXODUS










  16. Được cám ơn bởi:


+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
Trang 2/2 đầuđầu 12

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com