VÀI NHẬN XÉT VỀ THÁNH NHẠC HIỆN NAY
Lm. Thiện Cẩm
Nghe một bài hát trong nhà thờ mà cứ tưởng như một bài ở phòng trà
hay ở đâu đó, trong sinh hoạt đời thường
Tôi tự coi mình như đã giải nghệ, lâu nay không còn sáng tác, cũng chẳng còn tham dự vào những sinh hoạt liên quan đến Thánh Nhạc. Sở dĩ thế, là vì đối với tôi, âm nhạc cũng chỉ là "nghề tay trái" cho dù đã có thời tôi mê say nghề này chẳng kém ai. Bài hát cuối cùng mà tôi sáng tác có lẽ là phổ nhạc bài thơ của anh Ðình Bảng: "Mẹ Như Trăng ở Ðầu Nguồn".
Cha Tiến Dũng lôi tôi ra khỏi am thất và bắt tôi phải góp tiếng nói cho Ban Thánh Nhạc. Từ chối mãi không được, nhưng nói gì đây?
Nhận xét đầu tiên của tôi là Thánh Nhạc của ta hiện nay tăng về số lượng, nhưng có lẽ càng kém chất lượng.
1. Về nhạc
Hình như Thánh Nhạc ngày càng "tục hoá," chịu ảnh hưởng nhạc đời. Nghe một bài hát trong nhà thờ mà cứ tưởng như một bài ở phòng trà hay ở đâu đó, trong sinh hoạt đời thường.
2. Về từ
Nói chung ít thấm nhuần Kinh Thánh, thiếu chất lượng thần học. Nói chung, chỉ nói lên những tình cảm tầm thường. Thậm chí có những câu chẳng "chính thống" chút nào, chẳng hạn như: "Chúa là cánh buồm, con là ngọn gió" Ðáng lý ra phải ngược lại, bởi vì Chúa mới là Thần Khí, chính người hướng dẫn, thúc đẩy chúng ta, chứ không phải ngược lại. Vẫn còn một số tác giả gọi Ðức Kitô là Cha, và gọi Chúa Cha là Chúa. Như trong bài Trước Nhan Cha: "Nay chúng con hợp hoan mừng Cha nhân ái, xưa đã sống trên nơi trần ai... Cha đã hy vinh và vượt qua, nay Chúa ban thưởng Cha hạnh phúc muôn đời".
Tệ hơn nữa, có người gọi linh mục là Cha, và gọi Chúa (không biết Chúa Cha hay Chúa Kitô) là Chúa, như trong bài Một Ðời Là Của Lễ, người ta viết: "Cha phục vụ Chúa suốt cả đời Cha". Nếu nói trực tiếp với linh mục thì không sao, nhưng nếu là một lời ca hát trong nhà thờ, thì không thể nào chấp nhận, vì trong nhà thờ, chỉ Thiên Chúa Cha mới là Cha mà thôi. Có người còn gọi linh mục là "Hiện thân Chúa ta, Người là hồng ân Chúa Cha... Người là thang nối trời cao, Người là suối ân dạt dào...", linh mục mà là hiện thân của Thiên Chúa, và nhất là "suối ân dạt dào" thì quả thật quá đáng.
Tôi lật qua một số bài hát hiện đang được phổ biến, gặp những câu như: "Xin Cha nhận lễ dâng qua đôi tay của Thánh Thần". Chưa bao giờ nghe nói tới "đôi tay của Thánh Thần" cả, vả lại Thánh Thần đâu có đóng vai trò làm trung gian dâng của lễ.
Nhưng khuyết điểm phổ biến nhất đó là những lời ca "bay bướm", khách sáo, đôi khi rỗng tuếch hay vô nghĩa. Tôi đơn cử ra đây một số thí dụ mà tình cờ đọc lướt qua được, trong số một ít bài "Thánh Nhạc" vừa mượn về để "nghiên cứu":
- "Xin Ngài tha thứ cho con nỗi muộn phiền đắng cay con tự chuốc cho mình."
Nếu chỉ là phiền muộn đắng cay mình tự chuốc lấy cho mình thì chưa hẳn là điều tội lỗi xấu xa, nên cần gì xin ơn tha thứ?
- "Xin dâng lên Ngài tấm thân nhuốm bao khó nhọc. Hiệp cùng dâng lên ước mơ nồng cháy tuổi đời".
Trong văn chương chẳng thấy ai nói đến chuyện "tấm thân nhuốm bao khó nhọc," còn "ước mơ nồng cháy tuổi đời" là gì? - "Người đã giang cánh chim bằng êm ái như là phượng hoàng. Dù con bé nhỏ muôn nẻo đường dương gian. Ðường nguy nan. Qua vực sâu núi cao chẳng nơi nào không tình sâu nghĩa đầy. Tháng ngày ở bên Cha đất trời toả hương hoa."
Quả là bay bướm, nhưng văn chương thì chưa chắc, vì trước hết đó là những câu chắp nối như tình cờ, khó phân câu chiết cú. Vả lại "cánh chim bằng" có "Êm ái như là phượng hoàng" thì cũng còn tùy người ta hiểu "phượng hoàng" đây thực sự là giống chim gì, nó là con phượng sánh đôi với con công, hay có thể chỉ là con đại bàng!
Tôi lật những bài kế tiếp và đọc: "Lối đường trên dương thế nhiều gai góc hồn bơ vơ ngàn muôn hướng, ngước nhìn về trời mịt mù mà nhiều nỗi vấn vương. Con biết thế, con biết thế và con muốn chết đi như hạt lúa mì. Con sẽ chết, con sẽ chết, sẽ chết đi cho anh em. Vì con bước vào trần thế để làm theo ý Cha khi tạo dựng vũ hoàn, là con chết, là con chết, con chết đi cho anh em"
Sẵn sàng chấp nhận cái chết là một chuyện, còn muốn chết lại là chuyện khác. Chúa dựng nên con người để con người sống, chứ không phải để chết, dù là "chết cho anh em". Không biết tác giả khi sáng tác bài này, có thực sự muốn chết không, điều đó đáng nghi ngờ lắm.
- "Lời Chúa đến xây dựng vầng trăng..." Chẳng ai nói "xây dựng vầng trăng" cả.
- "Rồi hạt lúa sẽ đổi thay thành cây và đâm bông bát ngát...". Hạt lúa không đổi thay mà trở nên, biến thành cây lúa, nhưng còn chuyện nó có "đâm bông bát ngát" thì lại là kiểu nói chưa thấy ai dùng.
Tôi đọc tiếp một đoạn dài: "Thời gian trôi lưu dấu nhớ thương xa vời. Làm sao quên giây phút sánh vai trên đời... Ðường dương thế gian khó biết bao xót xa... Xin tha thứ những phút giây con khờ yếu đuối lạc loài tìm mê say trong tội nhơ. Ðam mê vui thú ngõ tối hồn lạc bơ vơ. Thoáng chốc đời mắc giăng mây mờ..." Nghe thật tình tứ, và rất "đời", đúng là hợp với tựa đề Ðường Ðời Ðường Chúa. Tuy nhiên, có nên coi đó là ngôn ngữ của "Thánh Ca" được chăng? Vả lại, đó còn là những câu văn sáo, vô nghĩa. Thật vậy, "đường dương thế gian khó" thì nghe được, chứ "đường dương thế bao xót xa" thì chẳng có nghĩa gì. Cũng như câu "Ðam mê vui thú ngõ tối hồn lạc bơ vơ" nghe thì dễ tưởng tượng ra xóm "chị em ta" nhưng ở đó mà còn "bơ vơ" thì e không ai tin được!
Hay là những câu như:
- "Ngày nào hang đá thương đau. Mang thân đến mãi ngàn sau..."
- "Chúa đã gọi con từ rất xa mờ... Khi con chưa là chi, thì Ngài đã chăm nom vun xới cho thành người."
Nói tới "thương đau" ở Bê Lem có lẽ hơi vội, vì đêm Bê Lem là đêm của Vinh quang và Bình an, đêm của niềm vui. Còn "mang thân đến ngàn sau" là gì?
Sau hết, "từ rất xa mờ" với "từ rất xa khơi" là những kiểu nói chẳng ai dùng. Còn chuyện Chúa chăm nom, săn sóc ta thì có, còn nếu Chúa mà "vun xới" thì e chúng ta chẳng sống nổi đâu, bởi lẽ chúng ta là người, chứ đâu phải là cây cối!
Chỉ nêu ra một số thí dụ trên đây, cho thấy lời ca trong "thánh nhạc" của chúng ta quả thật càng ngày càng trở nên tầm thường, không có nội dung Kinh Thánh, Thần học đã đành mà lại còn sáo, rỗng, đôi khi vô nghĩa. Chúng ta đã đánh mất đi cái thời của những lời ca đơn sơ nhưng thánh thiện, và cũng chẳng thiếu vẻ văn chương như: "Chúa đến thăm con mỗi sáng ngày. Linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây. Thiên đàng chớm nở ngay dưới thế. Tháng năm hoan lạc ngay từ đây".
Có nhiều lý do đưa tới tình trạng như hiện nay. Thứ nhất, có lẽ vì hơn 20 năm qua, do hoàn cảnh đặc biệt của Giáo Hội, nên Thánh Nhạc trở nên giống như một khu vườn bị bỏ hoang, thiếu hẳn sự chăm sóc, vun trồng. Ðã thế, trình độ văn hoá nói chung cũng như trình độ hiểu biết về Giáo lý, thần học cũng không còn được như trước, cho nên các nhạc sĩ trẻ của chúng ta còn bị hạn chế rất nhiều, không cho ra đời được những tác phẩm có giá trị.
3. Về cách trình bầy Thánh Ca
Tôi không đi tham dự các buổi trình diễn Thánh ca lâu lâu được tổ chức, nhưng cứ dựa vào cảm tưởng khi nghe ca đoàn này, ca đoàn nọ hát trong nhiều thánh đường khác nhau, tôi có nhận xét là trình độ cũng xuống cấp nhiều lắm. Hết cái thời mà người ta ái mộ đi nghe các ca đoàn như là Trùng Dương hay Cung Chiều. Các ca đoàn của chúng ta hiện nay hình như cũng chịu ảnh hưởng của lối trình diễn nhạc đời. Chỉ còn thiếu có những màn ôm đàn nhảy mà hát. ít còn có tính chất nghệ thuật. Ðặc biệt là chẳng còn biết phân biệt chỗ êm, chỗ mạnh, mà từ đầu đến cuối chỉ thấy cố gắng gào lên cho thật to, người nghe cũng cảm thấy mệt rồi! Chính lối hát gào to như vậy khiến cho mất hẳn bầu không khí cầu nguyện. Ðã vậy, những cách đệm đàn càng tăng thêm vẻ kích động. Thú thật tôi không ưa nghe tiếng đàn piano lả lướt trong thánh đường. Không hiểu tại sao piano ngày nay lại trở thành cây đàn được trọng dụng như thế trong thánh đường, nơi mà trước kia nó bị cấm. Nhiều nhà thờ có cả hai cây đàn: phong cầm và dương cầm, nhưng thực tế tiếng piano át hẳn tiếng phong cầm, khiến đôi khi người ta có cảm giác như đang ở phòng trà hơn là trong thánh đường. Nhất là khi nghe người chơi đàn lướt ngón tay vuốt phím đàn đi một đường du dương...
Nhưng khuyết điểm lớn nhất vẫn ở chỗ các ca đoàn hầu như dành độc quyền hát trong nhà thờ, không cho cộng đoàn tham gia rộng rãi. Và vì ca đoàn độc quyền hát, nên mới dễ bị cám dỗ "trình diễn", nghĩa là hát để cho người ta nghe hơn là hát để cầu nguyện, hát để hiệp thông với nhau trong việc thờ phượng. Ðó cũng là lý do khiến các ca đoàn cứ thích sưu tập những bài mới: nghe chỗ này hát bài nào lạ, mình cũng phải hát, kẻo nếu không sẽ bị coi là "quá đát". (outdated)
Nay Ban Thánh Nhạc cấp giáo phận, rồi Ban Thánh Nhạc toàn quốc hoạt động trở lại, tôi mong rằng mọi sự sẽ được chấn chỉnh lại, và Thánh Nhạc sẽ tìm về được bản chất riêng của mình, cũng như việc trình bầy Thánh Nhạc sẽ được khởi sắc hơn theo đúng cung cách và tinh thần của nó. Nhà thờ sẽ chỉ là nhà thờ, chứ không còn là một thứ sân khấu hay phòng trà, hoặc quán nhạc karaôkê, và các nhạc sĩ của chúng ta sẽ phân biệt được một điệu nhạc thánh và một điệu nhạc đời, cũng như lời ca của các bài hát đạo sẽ đạo đức hơn, sâu sắc hơn với những ý tưởng của Kinh Thánh, hợp với Thần Học, chứ không chỉ là những lời có tính cách tình cảm đôi khi ướt át, hoặc cũng có khi sáo, rỗng, hoặc vô duyên.
Thánh Nhạc Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, có thể nói là phi thường, khởi đi từ Mùa Thu Ðộc Lập 1945, với các nhạc đoàn như Lê Bảo Tịnh và Sao Mai, v.v., lúc đầu còn mang ảnh hưởng của những bài cantiques của Pháp, nhưng dần dần đã tạo ra được truyền thống của riêng mình, đồng thời cũng không ngừng tiến triển và tìm được những ảnh hưởng mới như thời của Suối Nhạc, hồi thập niên 60. Nay cũng đã đến lúc Thánh Nhạc Việt Nam phải tìm ra được một hướng đi phù hợp với thời của Hội nhập văn hoá, cũng như thời chuẩn bị bước vào Thiên niên kỷ III. Nhưng trước hết, dù chưa mở ra được một thời kỳ mới, thiết tưởng cũng nên phải tự khắt khe với chính mình, không nên cho ra đời những tác phẩm tầm thường, kiểu thợ thơ, thợ nhạc, những người sáng tác như gà đẻ trứng mỗi ngày một quả. Chính người sáng tác phải đòi hỏi nơi mình một cố gắng không ngừng đạt tới giá trị thật sự của nghệ thuật.
Về phía những người chọn lựa bài hát cho Phụng Vụ, đặc biệt là chính các linh mục, có lẽ cũng cần có ý thức hơn: không nên chọn bất cứ bài nào miễn sao có bài để hát. Các linh mục nên theo dõi sát hơn các ca đoàn, cố vấn, chỉ dẫn cho các ca trưởng chọn lựa các bài hát. Theo tôi nhận xét, hình như hiện nay các linh mục hầu như để mặc các ca trưởng tự do chọn lựa "thực đơn". Ðiều này không đúng lắm, bởi vì linh mục luôn luôn có trách nhiệm toàn bộ trong cử hành phụng vụ. Ðàng khác, nếu các bài đọc, bài giảng và bài hát ăn ý với nhau, thì việc cử hành Phụng vụ càng thu được nhiều kết quả tốt đẹp.
Nói tóm lại, đã đến lúc chúng ta cần phải quan tâm đặc biệt và nhiều hơn đến chất lượng của Thánh Nhạc, cũng như chất lượng của việc trình bày Thánh Nhạc trong phụng vụ. Nên khắt khe hơn trong việc chọn lựa những bài ca thực sự có chất lượng "thánh ca" có ý nghĩa Kinh Thánh và Thần học. Không nên đua đòi theo mốt, luôn luôn đi tìm những bài mới mà bỏ qua những bài đã trở thành truyền thống từ bao nhiêu năm qua. Ðừng có mới nới cũ, và nhất là chỉ xài một vài lần rồi bỏ, như tôi thấy vài nơi đang làm như vậy, nhất là trong những Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh hay Mùa Chay, Mùa Phục Sinh. Thí dụ như nhiều bài của cha Hoàng Kim hiện nay ít còn được sử dụng, trong khi đó thấy có nhiều bài mới được sáng tác rõ ràng là kém hẳn chất lượng cũng vẫn được đem vào thay thế. (Nhận định này hay quá! - người post bài)
Khuyết điểm cuối cùng là ca đoàn, đặc biệt là các ca trưởng hiện nay thường mắc phải, khiến nhiều khi gây khó khăn trong chính nội bộ các cộng đoàn, đó chính là lòng tự ái của các ca đoàn và nhất là ca trưởng. Tôi được biết, và cũng được nghe nhiều linh mục phản ảnh về điều này. Các ca đoàn thường tự đánh giá mình quá cao, nhất là đối với những linh mục không có khả năng về âm nhạc, cho nên đành khoán trắng cho họ. Bất cứ một lời phê bình nhận xét nào của người khác, kể cả của cha sở hay cha phó, có thể làm cho ca đoàn giận dỗi, thậm chí bỏ đi nơi khác. Vô phúc thay, nếu cha sở hay cha phó đụng độ với một ca trưởng "nhạc sĩ", nghĩa là có khả năng sáng tác, hay mới chỉ có khả năng "đạo nhạc" nghĩa là ăn cắp hay phỏng theo bài hát của người khác. Bản thân tôi đã từng bị người ta ăn cắp nhạc của mình và công khai hát trong thánh lễ mà tôi chủ sự, và mặc dầu linh mục có trách nhiệm đã nói với đương sự, nhưng đương sự vẫn tỉnh bơ, nghe đâu còn đề tên mình vào bài hát đã được sửa bậy. Ðó là trường hợp bài Hồng Ân Chúa Bao La, khiến nhiều người tìm đến tôi để hỏi xem bài nào là bài... chính thức! Mới đây lại thấy xuất hiện thêm bài Tình Chúa Yêu Con của tôi cũng được đem luộc lại và cho phổ biến. Chuyện sao chép, photocopy, in ấn không có phép tác giả đã là một chuyện lỗi đức công bằng, lại còn thêm cả chuyện "đạo nhạc" mà người "ăn cắp" có khi lại là người tu hành, điều đó thật đáng xấu hổ!
Theo tôi nghĩ, các ca đoàn và nhất là các ca trưởng hiện nay cần phải được bồi dưỡng kiến thức, không những về thánh nhạc mà còn cả về Kinh Thánh và Thần học, cũng như về chính phong cách phục vụ, để vai trò của họ được thể hiện đúng chức năng và tinh thần mà Giáo Hội đã đề ra. Các ca đoàn phải luôn ý thức rằng mình chỉ là một thành phần của Dân Chúa, một thành phần của cộng đồng phụng tự. Sứ vụ của họ trước tiên phải là hiệp thông với cộng đoàn, chứ không điều khiển hay lấn át. Họ phải giúp cho cộng đoàn, và phải giúp cùng cộng đoàn cầu nguyện, chứ không độc quyền lên tiếng khiến cộng đồng biến thành những kẻ chỉ biết nghe, hay tệ hơn là phải nghe những gì mình không thích, và do đó mà chia lòng, chia trí, hay bực bội không thể cầu nguyện được.
Trên đây là những nhận xét rất bộc trực nhưng với tất cả sự chân thành của tôi, chỉ nhằm góp phần làm cho Thánh nhạc được phát triển theo chiều hướng tốt đẹp, để nhờ đó mà việc thờ phượng Chúa được trở nên sốt sắng và xứng đáng hơn.
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất: