|
Bên kia bờ sông Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, trước khi đến Cái Sơn Bé, theo thói quen, người ta giọn một bữa ăn ngon cho tử tội trước khi trảm quyết. Nhưng tử tội linh mục Phi-lip-phê Minh, đã từ chối, chẳng phai lo sợ hãi nuối không nổi, vì trên đường ra pháp trường Cha đã chẳng luôn hiên ngang tươi cười đó sao ?
Thế chỉ ít phút nữa để hoàn thành sứ mạng nơi trần thế, ít phút nhưng không phải là quảng thời gian tầm thường, ít phút này là cao điểm của một kiếp nhân sinh. Để sống trọn vẹn vài ít phút đó, Cha Minh trọn một thức ăn khác, như một thứ lương thực cần thiết cao quí hơn: Cha quí xuống, ngửa mặt lên trời âm thâm cầu nguyện. Và sau bữa ăn tâm linh cuối cùng, cha nói ngắn gọn với lý hình:'' Đã xong rồi! ''.
Một hồi chiêng trống vao lên, thời gian như dừng lại, trang trọng và linh thiêng trong giờ phút cuối cùng của đời cha. Những phút thật ý nghĩa thật trọn viẹn, thật tràn trè trôi qua, cha được bước vào cõi phúc vĩnh cửu sau khi lý hình vung nhát gươm kết liễu cuộn hành trình làm chứng cho Đức-Ki-tô.
Sinh trưởng trong một gia đình đạo đức lễ nghĩa và thuộc làng Cái Mơn, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, năm Ât1 Hợi 1815, Phi-lip-phê Phan văn Minh, con ông Đa-Minh phan văn Đức và bà An-na Tiếu, là hai người con út trong gia đình có 14 anh chị em. Cha mẹ cậu mất sớm, mọi việc trong nhà đều ro chi đảm đang. '' Bà mẹ thứ hai '' này đã lo cho các em về vật chất lẫn tinh thần. Cậu Minh được học giáo lý thêm sức năm 13 tuổi. Sau đó cậu được Đức cha Ta-Be từ nhân cho đi học chủng viện Lái Thiêu. Nhưng chỉ ít lâu. do sắc lệnh cấm đạo 1833 của vua Minh Mạng, chủng viện bỉ giải tán.
Thời gian này Minh được theo Đức cha Tư qua Thái Lan, rồi đến trọ tải chủng viện Pê- năng Mã Lai. Thầy có vinh dự được Đức cha gọi qua Can-cút-ta ( Ân Độ ) để hợp tác với ngài bộ tự điển La-tinh Việt Nam năm 1838. Khi đức Cha qua đời, thầy lại trở về Pê-nạng tiếp tục học thần học. Các giáo xư các bạn đều quí mến thầy, một sinh viên xuất sắc, học giỏi và có tinh thần đạo đức.
Hết thời gian học tại Pê-năng, thầy trờ về nước và được đức cha Cu-ê-nô Thể truyền trức linh mục nam 1840 tại Gia Hựu. Sau khi vua Minh Mạng băng hà, Giáo Hội được hưởng một thời kỳ an bình dễ chịu hơn Vua Triệu Trị lên ngôi tuy không hủy bỏ những sắc lệnh cấm đạo, nhưng không gắt gao thi hành như trước nửa. Nhờ đó cha Minh có thể đi thăm viếng, giạy giáo lý cho các tĩn hữu vùng tiền giang . Hậu Giang. Những làng như Dầu Nước, Xoài Nút.Chợ Búng, Ba Giòng Cái Nhun, Cai Mơn Bãi San, Chà Và. Mặc Bắc... đểu ghi dấu chân truyền giáo của cha. Khi vua tự Đức lên ngôi năm 1847,
việc cấm đạo lắng dịu ít lâu. Nhưng sau đó lại trở nên dữ dội hơn bao giờ hết.
Không thể làm gì hơn được, quan cho lính đưa cha về giam tại Tuyến Phong chờ ngày lãnh án. nghe an xử tử kinh đô gửi về, cha Minh quì gối tạ ơn Chúa, rồi an ủi các anh em bạn tù nên vui lóng tuân thao ý Chúa, hẹn tái ngộ nước trời. Cha nói: '' Xin anh em hãy vững tin và hất lòng cậy trông Chúa. Ngai chẳng từ bỏ ai và sẽ thưởng công bội hậu cho những ai tân tâm tôn thờ ngài ''. Cha cũng căn dặn một tĩn hữu ở ngoài: tiền bạc của cha nếu còn lại, đừng phí tôn ma chay lớn làm chi, cứ đem phân phát cho người nghèo.
Cuối cùng ngày miong đợi của cha đã đến. Cha vui vẻ lần chuỗi tiến ra pháp trường. Qua bờ sông Long Hò đến Cái Sơn Bé, quân lính dọn bữa ăn sau cùng, nhưng cha Minh không thiết gì nửa. Cha chăm chú cầu nguyện. Sau hồi chiêng trống rền vang, lưỡi gươm lý hình đã đưa linh hồn vị anh hùng tiến thẳng về Thiên Quốc. Lời nguyện cầu thánh thiện sau hết của Cha Minh còn âm vang trong lòng những ngưởi hiện diện:
'' Láy chúa, xin xót thương con. Lạy Đức Giê-su, xin cho con sức mạnh và can đảm chịu lhổ để vinh danh Ngài, Lạy Mẹ-ma-ri-a, xin nâng đỡ con ''.
Hôm đó là ngày 03/7/1853. Thi thể vị tử đạo được đưa về an táng dười nền nhà thờ mới bị đốt phá ở Cái Mơn. Năm 1960, di cốt của ngai được đưa về Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn trong dịp lễ cung hiến.
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
|
|