3. Như trong một lâu đài


Một lần kia tôi đi qua một nơi quá hoang dã nên trong suốt ba ngày không thấy có một chỗ có người ở. Bánh cũng hết. 24 giờ qua tôi không có gì để ăn cả. Tôi bỗng thấy sợ. Tôi bắt đầu sốt sắng cầu nguyện và như thế tôi bình tĩnh trở lại.

Ði cạnh khu rừng tôi bỗng thấy một con chó.

Mừng quá tôi tự nhủ: nếu có chó phải có đoàn vật hay một người thợ săn.

Con chó sau khi đánh hơi chung quanh tôi, lại trở lại con đường cũ. Tôi đi theo.

Cách đó chừng hai trăm mét, một người trung niên gầy còm và xanh xao, từ một chòm cây bước ra.

Ông hỏi tôi từ đâu tới và tôi hỏi lại xem ông ta làm gì.


- Tôi làm nghề kiểm lâm.


Ông dẫn tôi về nhà cho tôi bánh và muối. Tôi bảo ông:


- Tôi thích được như ông, sống đơn độc trong rừng, thay vì đi lang thang như tôi từ nơi này qua nơi khác...

- Bác có thể ở đây nếu bác thích. Gần đây có căn nhà của ông kiểm lâm cũ. Hư hết một nửa rồi nhưng còn ở được. Bác có giấy kiểm tra không? Bánh thì luôn thừa thãi vì cứ 8 ngày người làng đưa bánh đến. Tôi uống nước suối không bao giờ cạn. Khi mùa thu đến, khi việc đồng áng đã xong, có hai trăm người đến đây làm. Lúc đó chúng ta không thể ở đây được nữa.


Sung sướng quá tôi bằng lòng đề nghị của ông. Còn bốn tháng nữa mới tới mùa thu. "Cám ơn Chúa" Như thế tôi có thể nghỉ ngơi, được thinh lặng và đào sâu sách Kinh.

Anh kiểm lâm kể cho tôi:


- Tôi không phải kẻ hèn hạ trong làng. Tôi sơn nhà. Tôi sống thoải mái.. và tội lỗi. Tôi thường đánh lừa khách hàng, chửi thề giận dữ và xỉn.

Ông từ nhà thờ có cuốn sách rất cũ nói về phán xét chung. Ðể kiếm tí tiền còm, ông đi từ nhà này sang nhà kia đọc sách. Ông thường đến nhà tôi. Chỉ cần cho ông sáu xu và một ly rượu ông sẵn sàng đọc suốt đêm cho đến khi gà gáy.

Một hôm khi nghe về phán xét và hình khổ hoả ngục tôi sợ quá nên bỏ nghề. Tôi bán nhà và làm kiểm lâm tại đây. Tôi chỉ xin dân làng bánh, quần áo và nến thắp để cầu nguyện.

Ðã 10 năm nay, tôi chỉ ăn bánh, uống nước, mỗi ngày hai lần. Tôi dậy sớm quì gối cầu nguyện trước tượng thánh và 6 ngọn nến cháy. Trong khi đi kiểm lâm tôi mang xiềng nặng 10 kí.

Tôi không giận dỗi nữa, không uống rượu, bia, hút thuốc và chung đụng với phụ nữ. Thời gian gần đây tôi lại hồ nghi về sự sống lại và cõi sau. Ai bảo cho tôi hay những điều đó là chân lý? Hay là vui hưởng cuộc đời có lẽ tốt hơn? Tôi không biết có ngày mình lại trở về nghề cũ nữa không.


Tôi nghe ông nói và thương hại ông. Ngay cả những người bình dân cũng có thể trở thành vô tín. Ðể giúp ông tôi đọc cho ông nghe một đoạn sách của các giáo phụ, tôi nhớ là của Hesychius.


Nếu con làm việc lành chỉ vì sợ hoả ngục, con đang đi trên con đường nô lệ, nếu con làm việc lành chỉ để được phần thưởng nước trời, con theo con đường kẻ làm thuê. Chúa muốn ta đến với Ngài như con đến với cha, ngài muốn ta sống lương thiện vì tình yêu và kính trọng ngài và muốn cho chúng ta sung sướng.


Một đoạn khác xa hơn:


Bình an tâm trí và tâm hồn không phải do việc phạt xác nhưng do cảm thức về sự hiện diện của Chúa.


Rồi tôi cố gắng giúp ông ta cầu nguyện như Chúa Giêsu.

Sau đó tôi về lều của tôi và tưởng tượng mình đang ở tronglâu đài. Tôi đọc lại sách kinh từ đầu đến cuối.

Ðọc như thế làm cho tôi lạc hướng kinh khủng. Có nhiều điều phải suy nghĩ. Nên tôi cầu nguyện suốt 24 tiếng đồng hồ không nghỉ. Tôi bình tĩnh và ngủ thiếp đi.

Tôi lại mơ thấy cha linh hướng. Tôi đang trong phòng ngài và ngài nói với tôi về cuốn sách kinh.


- Ðây là sách thích hợp với hết mọi người, thông thái cũng như vô học. Con không cần phải đọc theo thứ tự trong sách. Ngài kể cho tôi những đoạn nào phải đọc, nhất là bản trích dẫn về luật của Callixte thành Constantinople dành cho các người thực tập cầu nguyện.


Tôi nhớ trong giấc mơ tôi tìm đoạn trích dẫn của Callixte mà không thấy. Cha linh hướng cầm lấy sách giở từng trang và chỉ cho tôi.


- Ðây, cha đánh dấu cho con rồi.


Cha lấy miếng than dưới đất và vạch dấu cho tôi trong cuốn sách.

Khi tôi thức dậy trời còn tối. Tôi cố nhớ lại những gì cha linh hướng chỉ cho tôi trong giấc mộng.

Khi trời sáng, tôi chỗi dậy. Lạ lùng chưa, cuốn sách tôi để trên ghế dùng làm bàn, đang mở ở trang mà cha linh hướng chỉ cho tôi và có dấu gạc bằng than và cục than nằm gần cuốn sách.

Tôi chắc là ban chiều cuốn sách không ở chỗ đó. Tôi đã gấp sách để ở đầu giường tôi và không đánh dấu gì cả. Còn vết gạch màu đen thì còn đó. Trong những tuần kế tiếp tôi đọc đi đọc lại những gì cha linh hướng đã chỉ.

Tôi đọc lời nguyện với Chúa Giêsu theo nhịp hơi thở, càng ngày càng tự nhiên.

Như thế trong bốn tháng, tôi nếm được hoa quả của sự cầu nguyện liên tục: sự bình an nội tâm, một sự dễ chịu thân xác tổng quát, tinh thần sắc bén, hiểu được những sự linh thiêng, nhất là cảm nhận Chúa hiện diện khắp nơi.

Tôi hiểu được lời Kinh Thánh: "Nước Trời ở giữa chúng con."


Ngọc Lân mùa chay 1991.
Lm. Nguyễn Ðức Huy

[ram:523e1279be]http://www.mediamungo.com/mediamungoplayera.swf?media=50776&fs=5307886&s=1[/ram:523e1279be]