|
4. THỜI KỲ THỬ THÁCH (1802-1885)
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, mở đầu triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) đóng đô ở Phú Xuân, tức Huế ngày nay. Vì nhớ công ơn Đức cha Bá Đa Lộc, nên vua Gia Long đã cho phép tự do truyền bá đạo Công giáo. Nhà vua có thiện cảm với đạo nhưng không muốn theo vì thấy luật lệ đạo quá nghiêm khắc đối với tục đa thê và việc thờ cúng tổ tiên. Ông nói: “Đạo Thiên Chúa rất hợp với đạo lý nhưng quá nghiêm khắc với tục đa thê. Đối với ta, không thể chỉ lấy một vợ, mặc dù ta thấy là trị cả nước còn dễ dàng và ít mệt mỏi hơn là giữ cho gia đình ta được yên ấm” (x. Nguyễn Văn Kiệm, Một số vấn đề lịch sử..., sđd, tr. 27). Sau gần 20 năm được yên ổn dưới triều vua Gia Long (1802-1820), người Công giáo bắt đầu gặp những thử thách lớn lao và cả những cuộc bách hại kể từ triều vua Minh Mạng cho đến năm 1885.
Một vài lý do tiềm ẩn
Hoàng tử Cảnh chết vì bệnh đậu mùa năm 1801 lúc mới được 22 tuổi, vua Gia Long phế bỏ người cháu đích tôn là Đán và chọn người con bà thứ phi là hoàng tử Đảm kế vị, mặc dù nhiều quan lại triều đình lúc ấy can gián vua nên giữ chính tông, “đích tôn thừa trọng”, trong số đó, Tả Quân Lê Văn Duyệt là người phản đối mạnh mẽ nhất. Sau khi vua Gia Long chết, hoàng tử Đảm lên ngôi (15-2-1820) lấy niên hiệu là Minh Mạng. Vì muốn bảo vệ ngai vàng cho dòng tộc nên vua đã xử tội hoàng tôn Đán thông dâm với mẹ là bà Vương Cơ Tống Thị Quyên năm 1824. Bà bị dìm xuống nước cho chết, còn Đán và con cháu bị giáng làm thường dân (x. Trần Đình Sơn, Sđd, Tạp chí Xưa và Nay, số 81B, tháng 11-2000, tr. 26-27).
Dù Lê Văn Duyệt đã chết (25-8-1832), vua Minh Mạng vẫn giữ lòng hận thù. Vua bãi bỏ chức Tổng Trấn, lập toà án xét xử Lê Văn Duyệt tội hà lạm công quỹ. Vua cho đào mả và san bằng mộ bia khiến cho người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi nổi loạn chống lại triều đình. Cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi cũng là một lý do thúc đẩy vua Minh Mạng thù ghét và bách hại người Công giáo và tạo nên những hiểu lầm về Thánh tử đạo Joseph Marchand Du. (x. Gs. Lê Văn Sáu, Một vấn đề lịch sử, Sđd, tr. 101). Ngày 8-9-1835, quân triều đình chiếm lại được thành Phiên An. Vua truyền chém đầu, phân thây 1.994 người, trong đó có cha Phước, cha sở Chợ Quán, và chôn chung trong một hố sâu gọi là Mả Nguỵ. Sáu người còn lại bị giải về kinh đô Huế, trong đó có cha Marchand Du, người đã bị Lê Văn Khôi dùng vũ lực ép phải vào thành Phiên An, vì tin tưởng cha có phép mầu và lôi kéo được các tín hữu chống lại triều đình, như các thư cha Marchand Du còn để lại đã minh chứng điều đó. Thật ra, trong số 2.000 người phản loạn, chỉ có 26 người đàn ông và 40 đàn bà trẻ con là người Công giáo (x. Nguyễn Văn Quý, Địa phận Sài Gòn 1835-1944, tư liệu, 1993, tr. 5-39).
Một câu hỏi đặt ra cho những người thời trước và ngay cả thời nay: tại sao người Việt Nam thời đó lại theo đạo Công giáo bất chấp những thử thách, gian lao?
Đi tìm con đường sống
Câu trả lời đơn giản là người Công giáo thời đó muốn đi tìm con đường sống trong cái lẽ tử sinh của kiếp người. Hơn nữa, với những sắc dụ cấm đạo, nhiều người đã gặp khó khăn trong việc học hành, thi cử, làm lụng, bán buôn. Có người còn bị đày ải, giết hại. Họ vẫn muốn sống với tất cả niềm vui của Tin Mừng và muốn chứng minh sự thật của Tin Mừng.
Nho giáo dạy người dân phải trung với vua, vì vua là thiên tử thay trời trị dân, có toàn quyền sinh sát đến độ “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Người Công giáo lại được dạy chỉ có Chúa Trời là chủ của sự sống và tất cả đều là anh em, con cái của Cha trên trời, nên đều bình đẳng với nhau về mặt giá trị làm người dù vẫn có tôn ti trật tự trong xã hội. Hơn nữa, sau cuộc sống lữ hành ở trần thế này còn có cuộc sống vĩnh hằng ở thế giới bên kia mà người ta sẽ đạt được nhờ lòng tin vào Đức Giêsu. Chính trong tinh thần ấy, giá trị con người được nâng cao đến tột đỉnh.
Niềm tin vào đời sống vĩnh cửu lại thể hiện rất trong sáng và tích cực trong đời sống thường ngày và nó trở nên một sức hút kỳ lạ của tôn giáo mới. Người Việt Nam thời đó chưa hiểu biết nhiều về khoa học, chưa biết giữ vệ sinh nên nhiều trẻ sơ sinh bị chết, các sản phụ mắc bệnh rất nhiều. Hằng ngày, người ta thường dùng nước ao tù để tắm rửa, ăn uống, nên dễ bị các bệnh toét mắt, ghẻ lở, giun sán, đường ruột… Các Kitô hữu, nhờ được các giáo sĩ Tây Phương, các thầy giảng, các dì phước Mến Thánh Giá dạy khoa học phổ thông nên đã biết lọc nước để dùng và nấu nước chín để uống, giữ vệ sinh thân thể nên trở thành những người khoẻ mạnh, xinh đẹp và thông minh hơn. Các nữ tu Mến Thánh Giá thời ấy trở thành những nữ hộ sinh và là y tá nông thôn.
Trong xã hội phong kiến xây dựng trên Khổng giáo: nữ giới bị khinh miệt bởi quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Đạo Công giáo, với chế độ một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng và quan niệm mỗi người đều là con cái Chúa, đã giới thiệu những nét mới cho xã hội Việt Nam.
Thời đó, chữ nghĩa “quý giá” và đắt đỏ, cả làng may ra chỉ có một vài người giàu mới dám cho con đi học. Nhưng mọi Kitô hữu, bất luận nam nữ, đều được khuyến khích học hành, lúc đầu là chữ Nho, chữ Nôm, sau là chữ Quốc ngữ. Kinh sách đọc hằng ngày, giáo lý học hằng tuần, càng làm cho người có đạo dễ học hành và truyền bá chữ nghĩa cho nhau hơn.
Trong dân chúng, chữ Quốc ngữ được phổ biến rộng rãi càng làm cho những quan lại theo Nho học sợ hãi đến nỗi thi sĩ Trần Tế Xương (1870-1907) đã phải thốt lên:
“Cái học nhà Nho đã hỏng rồi
Mười người đi học chín người thôi”
Vì thế, ngay sau khi người Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (1862) thì tờ Gia Định Báo đã được phát hành ở Nam bộ (1865) bằng chữ Quốc ngữ. Chắc chắn người dân Nam bộ phải biết thứ chữ này cả trăm năm trước thì mới có thể đọc báo được. Chúng ta đừng quên chữ Nho cho đến đầu thế kỷ XX vẫn là chữ chính thức của nhà nước quân chủ ở Việt Nam. Sự đố kỵ của các Nho sĩ và quan lại đối với chữ Quốc ngữ là một trong những lý do quan trọng dẫn đến những cuộc tàn sát trong phong trào Văn Thân. Thật ra, chữ Nôm vẫn được tôn trọng trong cộng đồng người Việt Công giáo với hàng trăm tác phẩm đủ thể loại được biên soạn trong thời kỳ này. Ta có thể nêu tên một tác phẩm tiêu biểu: Sách dạy tập đi đàng nhân đức lọn lành của Cố Chính Philipphê Trung (M. Sérard), viết năm 1799. Sách gồm 24 quyển, mỗi quyển trung bình 200 trang, toàn bộ là 4.800 trang. Mỗi trang có từ 10-12 dòng, mỗi dòng từ 30-32 chữ. Tổng cộng khoảng 1.500.000 chữ Nôm, dài gấp 9 lần Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du.
Chúng ta cũng nên ghi nhận rằng: đạo Công giáo đã góp phần không nhỏ vào cuộc thăng hoa các nền văn hoá của người Chăm, người Khơ Me ở phương Nam. Nền văn hoá tinh thần của Kitô giáo theo đoàn người mở đất Phương Nam đã thay đổi nền văn hoá vật chất, tính giao với những Linga và Yoni của Chiêm Thành, Thuỷ Chân Lạp.
Về phương diện kinh tế, người theo đạo cực khổ tư bề vì bị áp bức bởi bọn cường hào ác bá trong làng, vì sưu cao thuế nặng, vì bị cấm hành nghề. Họ chỉ còn cách từ Bắc xuôi vào miền Nam, đến những phiên trấn mới mở, sống chung với những kẻ bị kết án lưu đày, cùng che giấu lai lịch của mình bằng những tên gọi trống không: anh Hai, chị Ba, cô Tư... để được yên thân giữ đạo. Họ sống đùm bọc lẫn nhau, coi nhau như anh em họ hàng, nên gọi là họ đạo (giáo xứ), truyền nghề cho nhau để cùng làm cùng hưởng, làm ra cái gì cũng phải thật tốt, bán ra cái gì cũng phải thật rẻ, lúc nào cũng nói thật, nói thẳng để khỏi làm “ô danh Chúa và nhục cho người có đạo”. Cùng lắm, trong cơn bách hại gắt gao, họ rủ nhau trốn vào những nơi hoang vu, phá rừng làm rẫy như ở La Vang, Trà Kiệu. Không ngờ, chính lối sống này lại làm cho đất nước phát triển về mặt kinh tế, bờ cõi được mở mang.
Sống và sống dồi dào
Năm 1844, Đức Thánh Cha Gregorius XVI chia giáo phận Đàng Trong thành 2 giáo phận mới: Tây Đàng Trong (Sài Gòn) gồm Lục tỉnh Nam Kỳ và Cao Miên do Đức cha Dominique Lefèbvre Ngãi coi sóc, Đông Đàng Trong (Quy Nhơn) do Đức cha E.T. Cuénot Thể cai quản. Năm 1846, giáo phận Tây Đàng Ngoài được chia làm hai: Tây Đàng Ngoài (Hà Nội) với 50 linh mục, 6 trợ sĩ và 140.000 giáo dân do Đức cha P.A. Retord Liêu chăn dắt và Nam Đàng Ngoài (Vinh, gồm Nghệ An, Hà Tĩnh) do Đức cha Gauthier Hậu quản trị với 35 linh mục, 4 trợ sĩ và 60.000 giáo dân. Năm 1848, giáo phận Đông Đàng Ngoài lại chia thành Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng) với 45.000 giáo dân, 30 linh mục và 8 thầy giảng và Trung Đàng Ngoài (Bùi Chu) với 135.000 giáo dân trong hai tỉnh Nam Định và Hưng Yên. Năm 1850, Toà Thánh lại chia địa phận Tây Đàng Trong thành hai: Tây Đàng Trong (phần đất của các tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long) do Đức cha Lefèbvre cai quản và Nam Vang (phần đất các tỉnh phía Nam Hậu Giang của Việt Nam và cả nước Cao Miên) do Đức cha J.C. Miche Mịch coi sóc. Giáo phận Đông Đàng Trong cũng chia thành hai: Bắc Đàng Trong là Huế (gồm Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên) với 12 linh mục, 2 trợ sĩ và 24.000 giáo dân do Đức cha F.M. Pellerin Phan quản trị và Đông Đàng Trong gồm các tỉnh từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận và các tỉnh Cao Nguyên với 50.000 giáo dân do Đức cha Cuénot Thể coi sóc.
Như thế, chỉ trong vòng 6 năm, Toà Thánh đã chia nhỏ các giáo phận do số giáo dân tăng lên rất nhanh. Giáo hội Việt Nam vào năm 1850 có 8 giáo phận với số giáo dân ở 4 giáo phận miền Bắc là 380.000 người, 147 linh mục và 4 giáo phận trong Nam khoảng 120.000 người và 80 linh mục.
Vào năm 1883, Toà Thánh tách giáo phận Đông Đàng Ngoài thành hai Đông (Hải Phòng) và Bắc (gồm các tỉnh ở phía Bắc như Bắc Ninh, Bắc Giang, Bắc Cạn, Cao Bằng Lạng Sơn) và trao cho Đức cha Colomer Lễ cai quản.
THỐNG KÊ NĂM 1889
(theo Adrien Launay, Atlas des Missions de la Société des MEP, Lille, 1890)
gm: Giám mục
lm.ts: Linh mục Thừa Sai
lm.VN: Linh mục Việt Nam
nt: Nhà thờ
cs: Chủng sinh
ts.nam: Tu sĩ nam
tg: Thầy giảng
ts.nữ: Tu sĩ nữ
cs.ba: Cơ sở bác ái
gd: Giáo dân
Tây Đàng Trong (Sài Gòn): 1 gm. MEP, 52 lm.ts, 42 lm.VN, 189 nt, 214 cs, 425 ts.nữ, 117 cs.ba, 56.000 gd.
Đông Đàng Trong (Quy Nhơn): 1 gm MEP, 25 lm.ts, 14 lm.VN, 40 nt, 54 cs, 440 ts.nữ, 12 cs.ba, 17.773 gd.
Bắc Đàng Trong (Huế): 1 gm MEP, 20 lm.ts, 26 lm.VN, 58 nt, 51 cs, 420ts.nữ, 36 cs.ba, 19.932 gd.
Nam Vang (Cần Thơ): 1 gm MEP, 26 lm.ts, 3 lm.VN, 58 nt, 96 cs, 24 tg, 42 ts.nữ, 61 cs.ba, 17.500 gd.
Tây Đàng Ngoài (Hà Nội): 1 gm MEP, 43 lm.ts, 97 lm.VN, 425 nt, 355 cs, 200.000 gd.
Nam Đàng Ngoài (Vinh): 1 gm MEP, 22 lm.ts, 59 lm.VN, 160 nt, 266 cs, 140 ts.nữ, 58 cs.ba, 72.000 gd.
Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng): 1 gm OP, 10 lm.ts, 32 lm.VN, 321 cs, 82 tg, 64 ts.nữ, 5 cs.ba, 41.120 gd.
Trung Đàng Ngoài (Bùi Chu): 1 gm OP, 16 lm.ts, 66 lm.VN, 118 cs, 3 cs.ba, 189.110 gd.
Bắc Đàng Ngoài (Bắc Ninh): 1 gm OP, 5 lm.ts, 17 lm.VN, 37 cs, 50 tg, 8 ts.nữ, 35.000 gd.
Tổng cộng: 9 gm, 219 lm.ts, 356 lm.VN, 930 nt, 1.246 cs, 156 tg, 1.399 ts.nữ, 292 cs.ba, 648.435 gd.
Những số liệu trên nói lên sức sống của Giáo hội Việt Nam dù phải chịu nhiều thử thách đau thương. Người ta ước tính có thể có hàng trăm ngàn người bị bách hại trong gần một thế kỷ (1802-1885), đặc biệt dưới triều vua Minh Mạng và Tự Đức. Phong trào Văn Thân với khẩu hiệu “bình Tây sát Tả”û vào những năm 1867-1868, 1873-1874 và 1883-1885 càng làm cho cuộc bách hại thêm gay gắt.
Thật vậy, trước khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam, những cuộc giết hại một số đông người Công giáo đã gây nên tiếng vang quốc tế khiến cho các nước như Anh, Pháp, Tây Ban Nha (x. Một số vấn đề lịch sử…, sđd, tr. 19) muốn can thiệp vào Việt Nam, nhân danh quyền sống và quyền tự do tôn giáo của con người, dù ẩn ý của họ là để chiếm Việt Nam làm thuộc địa. Một số sử gia đã ghép việc một vài giám mục thừa sai người Pháp như: P. de Béhaine (Bá Đa Lộc), Lefèbvre, Pellerin, Retord, Puginier giúp đỡ thực dân Pháp với việc thực hiện thành công cuộc xâm lược Việt Nam (x. Một số vấn đề lịch sử, sđd, tr. 17-21).
Chúng ta nên nhớ chỉ có một vài người trong số hơn 200 giáo sĩ đang truyền giáo tại Việt Nam thời gian đó (x. Thống kê Giáo hội Việt Nam năm 1889). Con số quá ít để ta phải phân biệt mà không thể “vơ đũa cả nắm” để kết tội tất cả. Hơn nữa, các giám mục dù là người Pháp hay không đều hiểu rằng cuộc sống ở Việt Nam hay ở nước Pháp chỉ là một giai đoạn của đời sống con người, tất cả đều qua đi để chỉ còn tồn tại Nước Thiên Chúa. Do đó, họ không phục vụ trực tiếp cho nước Pháp hay bất cứ nước nào. Theo não trạng và cách nhìn của người phương Tây thời đó, hành động của họ chỉ là muốn cứu giúp những người Việt Nam đang gặp khốn khổ, bị bách hại dã man, cho những người này có quyền được sống đúng phẩm giá con người và sống theo niềm tin của mình. Đó là nghĩa vụ lương tâm đối với người bị nạn mà sau này chúng ta định danh là những người bị xúc phạm nhân quyền theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền ngày 10-12-1948.
Ngày nay, người ta hiểu rằng không thể đổ lỗi cho một vài vị giáo sĩ nước ngoài hay một ít đồng bào Công giáo Việt Nam là nguyên nhân chính gây nên tình trạng mất nước, như một số quan lại và nho sĩ trong phong trào Văn Thân đã kết án. Sự chiến thắng của người Pháp ở Việt Nam hay của các cường quốc Tây Phương xâu xé Trung Quốc trong cuộc Chiến tranh Nha phiến (1839-1842) là hậu quả tất yếu của một đất nước lạc hậu trước nền văn minh khoa học, quân sự hùng mạnh với ý đồ bành trướng xâm lược của phương Tây. Lịch sử thế giới cũng cho thấy những đất nước nhỏ bé như Nhật Bản dưới triều Minh Trị Thiên Hoàng (Mutsuhito, 1852-1912) hay Thái Lan dưới triều vua Chulalongkorn-Râma (1868-1910) cùng thời với Việt Nam, đã thoát cảnh xâm lăng và đô hộ của phương Tây nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng và nhất là sự đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên, dưới ánh sáng đức tin, người tín hữu lúc nào cũng nhận ra, qua những thăng trầm ấy, ý định cứu độ của vị Chúa lịch sử.
Một số nhà Nho có tâm huyết như Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Chu Trinh (1872-1926) nhận chân được giá trị của người Công giáo Việt Nam. Các vị đó đã hô hào dân chúng sống tinh thần của người Công giáo Việt Nam: bỏ đi cái học từ chương cổ hủ của Nho giáo, cắt bỏ búi tóc, móng tay, nhận thức rõ mọi người đều là anh em chứ không ai có quyền sinh sát đối với người khác, nam nữ bình đẳng, bỏ chế độ đa thê trong gia đình, học chữ Quốc ngữ và chịu khó mở mang tâm trí cho nền văn minh khoa học Tây Phương. Đây là những điểm cơ bản trong phong trào Duy Tân, Đông Du của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can... Nhưng đó lại là những sự thật mà người Công giáo Việt Nam đã phải chứng minh bằng cả mạng sống mình (x. Một số vấn đề lịch sử, sđd, tr. 78). Phan Bội Châu trong cuốn hồi ký Phan Bội Châu Niên Biểu đã kể rõ tên của một số linh mục, giáo dân và xứ đạo đã giúp đỡ mình. Trong đó ông đã nhắc đến Mai Lão Bạng, quê ở Thọ Ninh, Hà Tĩnh, tháng 3-1908, đã đem vài chục thanh niên Công giáo sang Hồng Kông trong chương trình Đông Du (x. Một số vấn đề lịch sử, sđd, tr. 45.
Quả thật, người Công giáo Việt Nam không phải chỉ đi tìm một sự sống dồi dào cho riêng cá nhân hay cộng đồng nhưng đã góp phần rất lớn vào sự sống của cả dân tộc.
5. THỜI KỲ PHÁT TRIỂN (1885-1960)
Sau khi người Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ và triều đình Huế ký hiệp ước Giáp Thân (1884) công nhận sự đô hộ của Pháp, Việt Nam được chia thành 3 phần: Nam Kỳ là đất thuộc địa, Bắc Kỳ nửa thuộc địa và Trung Kỳ là đất bảo hộ. Người Công giáo Việt Nam lúc đó mới thật sự được tự do tôn giáo, công khai hoạt động nhờ những điều kiện thuận lợi về mặt tinh thần cũng như vật chất. Số tín hữu tăng lên rất nhanh, các giáo phận cũng được chia nhỏ cho phù hợp với số tín hữu tăng cao. Các cơ sở vật chất như: toà giám mục, nhà thờ, nhà xứ, trường học, dưỡng lão viện, cô nhi viện được xây dựng khắp nơi. Nhiều dòng tu từ Pháp hoặc các nước khác đã đến đặt cơ sở tại Việt Nam.
Tại Bắc Kỳ, 1895, giáo phận Tây Đàng Ngoài được chia thành Tây (Hà Nội) và Đoài (Hưng Hoá) và giáo phận Tây lại được chia nhỏ (1902) thành: Tây và Thanh (Phát Diệm). Vào năm 1913, giáo phận Bắc Đàng Ngoài lại chia nhỏ thành Bắc (Bắc Ninh) và Phủ doãn Tông toà Lạng Sơn. Ngày 3-12-1924, Toà Thánh đổi tên các giáo phận Tông toà tại Việt Nam theo địa hạt hành chính, nơi đặt toà giám mục, giống như ta đang có ngày nay. Ở Bắc có: Hà Nội, Phát Diệm, Hưng Hoá, Vinh, Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh và Phủ doãn Lạng Sơn. Ở Nam có: Sài Gòn, Quy Nhơn, Huế, và một phần của giáo phận Nam Vang gồm mấy tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tổng cộng là 12 giáo phận.
Năm 1925, Toà Thánh thiết lập toà khâm sứ ở Đông Dương và đặt tại Phủ Cam (Huế). Sau 400 năm Tin Mừng được rao giảng trên đất Việt (1533-1933), Đức Thánh Cha đã tấn phong vị giám mục tiên khởi là Đức cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng ngày 11-6-1933, tại Đền Thánh Phêrô ở Roma. Năm 1934, Công đồng Đông Dương với 19 giám mục, 5 bề trên dòng và 21 linh mục cố vấn, chuyên viên đã họp tại Hà Nội với nhiều điểm quan trọng nhằm tiến tới việc thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, đào tạo và thăng tiến hàng giáo sĩ Việt Nam, cổ vũ tinh thần sống đạo và truyền đạo của giáo dân Việt Nam qua các phong trào Công giáo Tiến hành.
Sau Công đồng Đông Dương, Giáo hội Việt Nam phát triển rất nhanh vì được định hướng rõ rệt dẫn đến việc thành lập nhiều giáo phận mới và nhiều giám mục Việt Nam được tấn phong: giáo phận Thanh Hoá (1932) từ giáo phận Phát Diệm, Thái Bình (1936) từ Bùi Chu, Vĩnh Long (1938) từ Sài Gòn và Phủ doãn Tông toà Lạng Sơn trở thành giáo phận chính toà (1939).
Sau thế chiến thứ I (1914-1918) và thứ II (1939-1945), dân tộc Việt Nam trải qua thời kỳ bất ổn triền miên kéo dài cho tới năm 1954. Nhiều phong trào chống Pháp với các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi như Việt Nam Quốc Dân Đảng với Nguyễn Thái Học ở Yên Bái, Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930) ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Du kích Bắc Sơn tháng 9-1940, khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940) và Cách Mạng Tháng 8-1945 thành công, khai sinh Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Rất nhiều tín hữu Công giáo đã tham gia vào các phong trào yêu nước này.
Tình hình Giáo hội Việt Nam vào năm 1939: 16 giáo phận, 17 giám mục, 1.544.765 giáo dân trên tổng dân số 23.193.769 người.
THỐNG KÊ GIÁO HỘI VIỆT NAM NĂM 1939
Bắc Kỳ: dân số (ds) 12.763.769 người, 1.151.653 gd, 633 gx có lm, 200 lm.ts, 932 lm.VN.
Trung Kỳ: ds. 3.970.000 người, 170.573 gd, 178 gx có lm, 61 lm.ts, 203 lm.VN.
Nam Kỳ(và Cao Miên): ds. 6.460.000 người, 222.539 gd, 168 gx có lm, 58 lm.ts, 208 lm.VN.
Tổng cộng: ds. 23.193.769 người, 1.544.765 gd, 979 gx có lm, 319 lm.ts, 1.343 lm.VN.
(Trích bản thống kê của Niên giám Công giáo 1964, tr. 199)
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, với hiệp định Genève ngày 20-7-1954, quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, nước Việt Nam bị chia thành hai miền. Vĩ tuyến 17 là giới tuyến tạm thời.
Vào thời điểm này đã xảy ra cuộc di cư ào ạt vào Nam của hơn 650.000 tín hữu. Biến cố này đã tạo nên nhiều xáo trộn trong Giáo hội Công giáo ở miền Bắc và thay đổi mạnh mẽ cấu trúc của Giáo hội Công giáo ở miền Nam. Giáo hội miền Bắc còn lại 10 giáo phận với 7 giám mục, 374 linh mục và một số ít tu sĩ phục vụ 750.000 tín hữu.
Do số tín hữu đông đảo từ miền Bắc chuyển vào, nhiều giáo phận mới ở miền Nam được thành lập: Cần Thơ (1955) từ Nam Vang, Nha Trang (1957) từ Quy Nhơn. Ngày 24-11-1960, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã thiết lập Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam với 3 giáo tỉnh Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Các giám mục trước đây là hiệu toà, nay trở thành chính toà đánh dấu sự trưởng thành của Giáo hội Việt Nam. Một số giáo phận mới được thành lập trong dịp này: Long Xuyên từ Cần Thơ, Đà Lạt và Mỹ Tho từ Sài Gòn. Vào năm 1960, toàn bộ Giáo hội Việt Nam có 20 giáo phận: 10 ở giáo tỉnh Hà Nội, 4 ở Huế và 6 ở Sài Gòn. Thời điểm này, Giáo hội Việt Nam có 23 giám mục, 2.096.540 tín hữu trong số 29.200.000 dân, chiếm tỷ lệ 7,17%, 1.914 linh mục, 5.789 nam nữ tu sĩ, 1.530 đại và tiểu chủng sinh.
6. THỜI KỲ TRƯỞNG THÀNH (1960 ĐẾN NAY)
Sự trưởng thành của Giáo hội Việt Nam được xác định không phải chỉ hệ tại nơi việc tổ chức giáo hội qua những con số tín hữu, linh mục, tu sĩ, Công giáo Tiến hành và các cơ sở bác ái, nhưng dựa vào chính lòng đạo đức sâu xa của người tín hữu của cả hai miền Nam Bắc, dù trong lúc được bình an hay bị thử thách. Giáo Hội là sự hiệp thông trọn vẹn của mọi thành phần Dân Chúa. Do đó, sự phát triển của Giáo hội Công giáo miền Nam có sự đóng góp vô cùng lớn lao của Giáo hội Công giáo miền Bắc bằng lời cầu nguyện, hy sinh như một điều kiện cần thiết trong suốt dòng lịch sử của Giáo Hội toàn cầu. Đây là ân sủng diệu kỳ của lòng Chúa thương yêu.
Trong khoảng thời gian từ 1960-1975, các giáo phận ở miền Trung và miền Nam lại được chia nhỏ vì số tín hữu tiếp tục gia tăng rất nhanh: Đà Nẵng (1963) từ Quy Nhơn, Xuân Lộc và Phú Cường (1965) từ Sài Gòn, Ban Mê Thuột (1967) từ Kontum, Phan Thiết (1975) từ Nha Trang. Vào thời điểm 1975, Giáo hội Việt Nam có 3 Giáo tỉnh: Hà Nội, Huế, Sài Gòn với 25 giáo phận. Giáo tỉnh Hà Nội gồm 10 giáo phận: Hà Nội, Lạng Sơn, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Hoá, Thái Bình, Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hoá và Vinh; giáo tỉnh Huế gồm 6 giáo phận: Huế, Quy Nhơn, Kontum, Nha Trang, Đà Nẵng và Ban Mê Thuột; giáo tỉnh Sài Gòn sau đổi thành TP. Hồ Chí Minh (từ ngày 23-11-1976) gồm 9 giáo phận: TP. HCM, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên, Đà Lạt, Mỹ Tho, Phú Cường, Xuân Lộc và Phan Thiết.
Khởi đầu thời kỳ này, một biến cố tác động sâu xa đến Giáo Hội toàn cầu cũng như Giáo hội Việt Nam, đó là Công đồng Chung Vatican II (1962-1965) với đường hướng đại kết và mục vụ đã làm cho Giáo hội Việt Nam, nhất là ở miền Nam, quan tâm nhiều đến vai trò của Giáo Hội trong thế giới ngày nay và thúc đẩy mọi tín hữu tích cực tham gia các hoạt động trong xã hội trần thế. Bảng tổng kết tình hình Giáo hội Việt Nam vào năm 1962-1963 cho ta thấy hoạt động của Giáo hội trong lĩnh vực giáo dục, y tế và xã hội rất lớn. Hầu như xứ đạo nào cũng có trường tiểu học và các nơi tập trung đông dân như thị xã, đều có trường trung học. Ta có thể thấy cả Giáo hội Việt Nam lúc đó có 2.151.370 tín hữu, 1.523 linh mục triều, 293 linh mục dòng và thừa sai, 533 đại chủng sinh, 2.748 tiểu chủng sinh, 956 tu sĩ nam, 4.977 tu sĩ nữ, 6.026 nhà thờ, 1.354 xứ đạo. Giáo hội Việt Nam lúc đó có 93 trường trung học với 60.412 học sinh, 1.122 trường tiểu học với 234.749 học sinh, 58 cô nhi viện nuôi 6.616 trẻ, 48 bệnh viện với 6.453 giường, 35 viện dưỡng lão với 244 người, 8 trại phong với 3.465 người và 159 phòng phát thuốc cho khoảng 1.870.073 lượt người.
Sự phát triển của Giáo hội Việt Nam trong thời kỳ này trước hết là do sự tổ chức quy củ của các giáo phận cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là trong việc đào tạo các linh mục và tu sĩ. Ở miền Nam, giáo phận nào cũng có các tiểu chủng viện thu nhận các học sinh từ lớp 6 và huấn luyện đến hết lớp 12 để đưa vào các đại chủng viện chung của từng vùng hay từng miền. Vì có chương trình đào tạo hoàn chỉnh và định hướng cụ thể nên các linh mục, sau 7-8 năm học ở đại chủng viện, đã trở thành những người lãnh đạo có khả năng tại các giáo xứ hay trong các hoạt động mục vụ.
Sự phát triển của xã hội, nhất là ở miền Nam Việt Nam, luôn có sự đóng góp tích cực và lớn lao của các hội đoàn và phong trào Công giáo Tiến hành. Mỗi giới, mỗi lứa tuổi, đều có những đoàn thể hướng dẫn nhằm giúp việc sống đạo tiến triển theo đường hướng tích cực. Ta có thể kể tên số đoàn hội tiêu biểu như: Thiếu Nhi Thánh Thể, Hùng Tâm Dũng Chí, Nghĩa Sinh, Hướng Đạo Sinh Công giáo, Thanh Sinh Công, Con Đức Mẹ, Thanh Lao Công, Legio Mariae, Hiệp Hội Thánh Mẫu, Bà Mẹ Công Giáo, Gia Đình Phạt Tạ, Bác Ái Vinh Sơn, Dòng Ba Phan Sinh, Dòng Ba Cát Minh, Dòng Ba Đa Minh…
Chúng ta không thể nào quên sự đóng góp lớn lao của các tu sĩ nam nữ vào sự phát triển Giáo hội và xã hội. Trong thời kỳ 1960-1975, các dòng tu phát triển rất mạnh ở miền Nam: 22 dòng và tu hội nam với 956 tu sĩ, 33 dòng và tu hội nữ với 4.977 tu sĩ đã khấn. Phần lớn các tu sĩ dạy trong các trường và làm việc tại các cơ sở bác ái từ thiện như bệnh viện, nhà hộ sinh, viện dưỡng lão, cô nhi viện, trại phong… Các tu sĩ được học hỏi nhiều về đời tu cũng như về các khoa học đạo đời để có khả năng phục vụ. Trình độ văn hoá của tu sĩ được nâng cao: trước đây là tốt nghiệp lớp 9, giờ đây là lớp 12. Sau đó, nhiều người còn học thêm vài ba năm thần học hoặc theo học các chuyên khoa tại các đại học.
Tuy nhiên, sự trưởng thành của Giáo hội Việt Nam ở miền Nam cũng được thử thách khi người tín hữu tiếp cận với lối sống hưởng thụ dễ dãi, thiên về khoa học thực nghiệm của nền văn hoá phương Tây. Dù được hoàn toàn tự do sống đạo và truyền đạo, nhưng số người theo đạo lại giảm sút so với những thời kỳ trước đây.
Ta có thể căn cứ vào số người lớn được rửa tội trong các giáo phận ở miền Nam để xác định điều này. Thí dụ: tổng giáo phận Sài Gòn từ năm 1962-1974, với số tín hữu 500.000 người nhưng số người lớn theo đạo mỗi năm một giảm, từ 4.624 người xuống còn 1.829 người. Hoặc giáo phận Xuân Lộc, với số dân Công giáo 332.810 người, chỉ có 857 người lớn trở lại đạo vào năm 1974 (x. Nguyễn Ngọc Sơn, Người mục tử cộng đồng hướng về tương lai, Toà Tgm. TP. HCM xuất bản 1997, tr. 73-88). Dù rằng các giáo phận này có trên 500 linh mục, hàng ngàn tu sĩ nam nữ, hàng trăm ngàn đoàn viên Công giáo Tiến hành hoạt động trong gần 500 trường trung tiểu học và cả trăm cơ sở bác ái từ thiện. Người ta có thể học trường Công giáo để biết chữ nghĩa, đến cơ sở từ thiện để nhận trợ cấp thuốc men, vật chất, tiền bạc, nhưng người ta không theo đạo Công giáo. Điều này thúc đẩy Giáo hội Việt Nam phải thay đổi cách sống đạo và rao giảng Tin Mừng để trưởng thành hơn trong đức tin.
Sự trưởng thành ấy cũng trải qua một giai đoạn khủng hoảng cần thiết để lớn lên sau 30-4-1975, khi chính quyền miền Nam sụp đổ. Biến cố này đã tạo nên sự hoảng loạn trong dân chúng, nhất là những người có liên quan với chế độ trước, khiến gần một triệu người đã rời khỏi đất nước thân yêu bằng bất cứ cách nào, kể cả những cách thức tủi nhục nhất, đau thương nhất. Đối với một số người, biến cố này đã để lại những vết thương trong tâm hồn mà chỉ có tình yêu và niềm tin Kitô giáo mới có thể chữa trị được.
Quả thật, từ năm 1975, Giáo hội Việt Nam đã bước vào một thời kỳ mới để ý thức hơn về sứ mạng của mình và càng thêm tin tưởng vào quyền năng ân sủng của Chúa. Không còn bị ràng buộc bởi những thứ vật chất như cơ sở, phương tiện, người tín hữu tập trung lòng đạo vào việc thể hiện đức tin, đức ái trong đời sống âm thầm khiêm tốn hằng ngày. Các linh mục tu sĩ bớt bận tâm về trường học, cơ sở bác ái xã hội để tập trung vào việc học hỏi, dạy giáo lý và sống kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện.
Thật vậy, khi chúng ta tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa Quan Phòng, Đấng đã an bài những điều tốt đẹp nhất cho dân tộc và Giáo hội Việt Nam, chúng ta sẽ nhìn những gì đã xảy ra với tâm hồn an bình, tràn đầy hy vọng và mới biết cảm tạ Chúa vì hồng ân đặc biệt của Người. Biến cố này dẫn đến sự thống nhất đất nước, cho người hai miền bây giờ san sẻ cuộc sống trọn vẹn cho nhau, đồng thời cũng thống nhất Giáo hội Việt Nam, qua Đại hội các Giám mục Việt Nam năm 1980, trong đường hướng “sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”.
Biến cố đó còn giúp người Công giáo Việt Nam đang sống tản mác trong nhiều nước trên thế giới ý thức về sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô và giới thiệu đời sống văn hoá đạo đức của người Việt Nam cho toàn thể gia đình nhân loại. Người Công giáo Việt Nam hải ngoại, cũng giống như dân Israel xưa trong cuộc lưu đày ở Babylon, có sứ mạng tham gia vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa cách đặc biệt. Những đau thương, mất mát phải gánh chịu chỉ là “cái giá đền tội” cho anh chị em mình như Đức Giêsu đã chịu vì toàn thể nhân loại và Cha Trên Trời sẽ đền bù lại gấp trăm, kèm theo phần thưởng đời đời. (x. Mc 10,28-31). Cũng nhờ biến cố này, hàng trăm ngàn người Việt đã tiếp thu được nền văn minh và khoa học tiên tiến của Tây Phương, đã tốt nghiệp đại học và trên đại học để có thể giúp đỡ quê hương sau này theo kế hoạch công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Về lĩnh vực kinh tế, nhiều người đã thành đạt và có điều kiện để giúp đỡ thân nhân nơi quê nhà cũng như đóng góp gián tiếp hoặc trực tiếp vào nền kinh tế quốc gia.
Lời kết
Nhìn lại dòng lịch sử dân tộc, người tín hữu Việt Nam sẽ cảm nghiệm được tình thương của Cha trên trời để sống hoà thuận và hiệp thông với anh em trên mọi miền đất nước, cũng như với mọi người trên thế giới. Như dòng sông nào cũng chảy xuôi về biển, hoà vào đại dương bao la, rồi dưới ánh nắng mặt trời, hơi nước bốc lên cao thành mây, thành mưa trả lại cho dòng sông nguồn nước tinh khiết từ trời, thì người tín hữu cũng luôn được mời gọi để hoà nhập và biến đổi như thế trong cuộc sống đạo thường ngày.
Ý thức được điều này, người Công giáo Việt Nam càng muốn hoà nhập vào lòng dân tộc để thể hiện sứ mạng đã được Cha trên trời trao phó: xây dựng tình huynh đệ chân thành nơi địa phương mình sống. Trong đại gia đình dân tộc hiện nay có nhiều nền văn hoá khác nhau nên người tín hữu cần tìm hiểu và đối thoại với anh em để cùng xây dựng một nền văn minh tình thương và hoà bình (x. Sứ điệp Ngày Thế giới Hoà bình 1-1-2001 của ĐTC Gioan Phaolô II).
Bước vào thiên niên kỷ mới, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã thiết tha yêu cầu người tín hữu đổi mới cách nghĩ, cách làm, cách sống của mình theo đúng tinh thần của Chúa Kitô để có thể “sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng cho mọi giới đồng bào thân yêu” (x. HĐGMVN, Thư Mục vụ, tháng 10-2000, số 2, 3, 5, 8). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Thông điệp Khởi đầu thiên niên kỷ mới, cũng mời gọi tất cả chúng ta cùng “ra khơi với Đức Giêsu Kitô” để thả lưới và bắt được nhiều “cá người” cho Thiên Chúa (số 51-52). Chúng ta sẽ không đứng yên trên bờ hay vui chơi trên bãi biển theo xu hướng cầu an hưởng thụ của con người thời nay. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận những gian lao vất vả trong cuộc sống đạo và truyền đạo để làm cho Giáo Hội và quê hương Việt Nam mỗi ngày thêm phát triển, tràn đầy tình thương và sự sống của chính Thiên Chúa.
http://nhathocaolanh.com |
|