|
Sau đây là những đọan trích từ thư tín của Đức Cha Cassaigne, mà không lúc nào vắng chất hài hước. Trước hết một lá thư gửi cho các anh em họ hàng viết tại Di-Linh, ngày 26 tháng 11 năm 1933. Ngài vừa từ Pháp trở lại sau thời gian nghỉ ngơi, mà Ngài cố rút ngắn tối đa.
Anh, Chị thân mến,
Chị Jeanne đã có lý khi mắng tôi đã lâu rồi chẳng gửi tin tức của tôi cho Anh, Chị. Nguyên nhân thì luôn là vầy: trước hết bận bịu vô khối công việc, và rồi cái sốt rét "chết tiệt" trong nhiều tháng qua từ chối buông tha tôi !!! Ông bác sĩ có lý, khi nói rằng lẽ ra tôi phải ở nán lại Pháp 5 năm, nhưng nếu mà như thế, thì tôi lại thành người suy nhược thần kinh mất – điều còn tệ hơn – và ai sẽ chăm sóc anh em dân tộc thân yêu của tôi ? Đấng Tạo Hóa đã làm nên mọi sự tốt đẹp và người ta sẽ sống chừng nào người ta muốn, và rồi sau đó; chà! chắc chắn sẽ có một chỗ trống nhỏ nào đó trên thiên đàng để hưởng hạnh phúc trọn hảo, dành cho cái ông cha xứ bé nhỏ xứ Mọi và khi ấy, sẽ hết sức an tâm: hết sốt rét, hết lo lắng và như giáo dân của tôi hay mơ, sẽ có thuốc hút, rượu cần uống thỏa thuê.
Nhưng trong khi chờ đợi, phải giật dây cương (cho ngựa phi) và tôi hạnh phúc vì tôi có nhiều công việc và là công việc tích cực sống động. Cho nên đối với tôi, thật sự là một hình phạt sám hối khi phải ngồi ở bàn giấy, để viết thư. Tôi nói thật đấy! Hoặc để dọn các bài giảng bằng tiếng Việt hoặc tiếng Thượng cho văn vẽ câu kệ. Không cần phải nói với Anh Chị là, để trổ tài hùng biện, tôi chẳng cần phải tìm cảm hứng nơi Bossuet hay Lacordaire, nhưng điều cốt yếu là bổn đạo của tôi hiểu hết được những gì tôi nói !
Đây là thời dụng biểu của tôi: mỗi tuần ba lần, tôi là y tá của Làng Cùi; ba buổi sáng khác, tôi làm thợ mộc để nới nhà thờ ra lớn hơn, vì bây giờ nó đã trở nên quá nhỏ; buổi trưa, tôi ngủ, đọc sách kinh và từ 2 giờ chiều, Ông Cha Xứ tiếp khách. Ối trời! Các khách hàng chẳng hề thiếu: thăm khám bệnh nhân, xét xử những vụ việc nho nhỏ, giải tội, v.v… Vào 5 giờ, tôi nhảy lên xe đạp và đi dạy giáo lý cho anh em Thượng và các người Việt; 6 giờ, trở về lại nhà, là thời gian đến kể cho Chúa nghe những biến cố trong ngày, lần chuỗi. Rồi là đến bữa ăn tối do đầu bếp 14 tuổi nấu dọn, song anh chàng nấu ăn nầy lại luôn tìm cách đánh đổ tất cả mọi lý thuyết nấu nướng quá khứ, hiện tại và chắc chắn là cả tương lai.
Đó là công việc của 6 ngày và như Đấng Tạo Hóa nghỉ ngơi ngày thứ bảy, tôi cũng làm như vậy vào ngày Chúa-nhật và đi săn những chú hoẵng, gà rừng và một vài thứ ăn được đầy dẫy quanh nơi tôi ở.
Cuối cùng, giữa những khoảng thời gian ấy, tôi tự cho phép mình lên vài cơn sốt, cũng là dịp để nằm nghỉ. Ngày tháng qua đi thật mau chóng và vui vẻ, tôi thấy lòng mình thỏa mãn vì có những ngày sống từ sáng đến tối thật tròn đầy.
Năm tới, sau ngày Tết Việt-Nam, vào khoảng giữa tháng Hai, Đức Giám-mục của tôi đã hứa sẽ cho tôi một cha phó người bản xứ. Như vậy chúng tôi sẽ có hai người cùng làm việc và sẽ có hai người cùng sốt rét. Như thế sẽ thấy được an ủi hơn.
Cám ơn Jeannot vì 100.000 nụ hôn mà anh ấy gửi cho tôi. Tôi chưa bao giờ nhận một lúc nhiều như vậy. Tôi gửi lại cho anh ấy 5 lần hơn thế và nhờ anh phân phát cho Bố, Mẹ, Paillet và Dédé. Hôn tất cả với rất nhiều âu yếm.
JEAN
THƯ GỬI CHO CỤ THÂN-SINH
Thư gửi cho thân phụ Ngài được viết thời gian ở Sài-Gòn, chiến tranh hoành hành. Marguerite (Cassaigne) là vợ sau của thân phụ Đức Giám mục.
TÒA GIÁM-MỤC SÀIGÒN
180, Phố Richaud
Điện thoại : 20. 828
Sàigòn, ngày 30 tháng 3 năm 1948
Bố thân yêu,
Con viết thư cho Bố sau ngày Lễ Phục Sinh tổ chức rất đẹp ở Sàigòn: những nghi thức đẹp đẽ với sự tham dự của rất đông giáo dân. Lễ nào ở Nhà thờ Chính-tòa cũng hầu như chật kín người đủ loại, đủ chủng tộc và màu da Á châu đứng kề sát nhau; trong khi đại bác thỉnh thoảng lại nổ và trời rất nóng, khí hậu mùa xuân của chúng con là như vậy đó. Ở đây người ta cảm nhận được một sự đổi mới Đức-tin. Con càng thấy điều ấy trong những lần đi kinh-lý ban phép Thêm Sức, mà con vừa làm ở vùng ngoại ô Sàigòn. Ở những nơi đó, người ta ghi nhận một phong trào trở lại đạo to lớn rất khích lệ. Quả là từ hai năm nay, dân số Sàigòn đã tăng gấp đôi. Theo kết quả cuộc điều tra dân số vừa rồi, thực hiện vào tháng hai nầy, thì dân số Sàigòn là 1.175.000, trong đó có 16.000 người Pháp, 800.000 người Việt, 300.000 người Hoa và số còn lại gồm đại biểu của mọi sắc dân vùng Viễn-Đông. Tuần qua, lần đầu tiên kể từ khi con từ Pháp trở lại, con đi tới một tỉnh cách Sàigòn 70 cây số, bằng xe hơi của con, nhưng lại có xe bọc thép vây quanh, trên một con đường bị chiến tranh tàn phá và hầu như ở mọi khúc quanh đều có lô-cốt trang bị súng máy canh giữ. Đi kiểu nầy chẳng thích thú chút nào, nhưng không thể làm gì khác hơn.
Hôm qua, thứ hai tuần bát nhật Phục-Sinh, con đã đi ban phép thêm sức trong một vùng mà năm ngoái còn là một góc tồi tệ nhất của vùng ngoại ô, một giáo xứ Việt-Nam lớn ở phía cảng biển. Cho tới bấy giờ, cái góc ấy vẫn còn được bình định rất tốt. Hôm qua, mọi sự diễn ra tốt đẹp, chẳng cần có lính tráng gì hộ tống. Sau nghi lễ, con còn được mời uống sâm-banh do các giáo dân đãi và đó là lần thứ ba trong hai ngày, người ta tiếp đón con bằng sâm-banh, bởi vì người Việt-Nam cho rằng không thể tiếp một người Pháp, mà không đãi sâm-banh. Người ta làm như vậy trong các buổi tiếp-tân chính-thức và các giáo-dân làm theo khi họ đón tiếp Giám-mục. Ồ, Bố cứ yên tâm, không phải trong rừng đâu, mà trong các giáo-xứ ở thành phố và vì từ khi trở về lại, con đi ban thêm sức trong tất cả các giáo-xứ ở Sàigòn và vùng ngoại ô, khắp nơi con đều uống loại rượu vang nước ta, một điều rất tuyệt cho bệnh sốt rét. Thứ năm tới, và, than ôi, điều ấy xảy ra quá thường xuyên, sẽ lại có một buổi tiếp tân dành cho Chính phủ Nam-Kỳ, rồi lại… Sâm-banh. Chẳng có tuần nào mà con không bị buộc phải xuất hiện và trong khi ấy, cái chiến tranh kỳ khôi vẫn tiếp tục, gây ra chết chóc thương tâm.
Ôm hôn Bố thật mạnh và cả Marguerite nữa, Bố yêu dấu.
JEAN CỦA BỐ
THƯ GỬI MARGUERITE CASSAIGNE (vợ kế của bố Ngài)
Sàigòn, ngày 9 tháng 6 năm 1953
Marguerite thân yêu,
Con vội trả lời thư Dì của viết ngày 3 tháng 6. Con vẫn luôn rất bận bịu, nhưng có những thời kỳ mà con chậm trả lời các thư tín nhận được, ấy là khi con đi kinh lý nhiều ngày và lúc về nhà, nhìn thấy một đống thư, đúng là khổ hình.
Trong tháng 5 và đầu tháng 6, con đã đi hàng trăm cây-số trên các con đường của Miền Nam Việt-Nam, đáng kể nhất là rất nhiều lần đi ban Bí-tích thêm sức ở Miền Tây và vùng giáp ranh "đồng tháp mười", trong các cộng đoàn Kitô-giáo ở đó các tín hữu tụ tập lại, nhờ được bình định an ninh.
Con giữ được một kỷ niệm êm đẹp về một lần đi kinh lý vào cuối tháng năm, lúc con thấy lại Đức tin thật sống động của hàng ngàn người từ lâu bị bỏ rơi. Con cũng giữ một kỷ niệm "cháy bỏng, khát khao", vì nhiệt độ như đang ở sa mạc Sahara, nhất là tại một giáo xứ mà con ban thêm sức cho 350 người vào lúc hai giờ rưỡi chiều, trong một nhà thờ đông nghẹt, thắp vô số đèn cầy, rất nhiều đèn sắp thành dãy trên bàn thờ và nhiệt độ hẳn phải dao-động trong khoảng 45 độ. Con đã chọn giờ nầy, vì sau nghi lễ kéo dài 2 tiếng đồng hồ, con sẽ còn phải đi 120 cây số bằng xe hơi và vì con đường ban ngày được canh gác, song ban đêm không được đi lại sau 18 giờ 30. Mặc dù nóng sốt, mọi sự diễn ra tốt đẹp.
Thưa Dì Marguerite yêu dấu, xin Dì hãy tha lỗi cho vì để lâu không trả lời thư Dì, nhưng, như ông thượng sĩ tốt bụng hay nói với con "người ta xâu xé con" và con chẳng phàn nàn điều ấy đâu. Ôm hôn Dì thắm thiết, con xin Dì hãy tin ở lòng yêu mến sâu xa của con đối với Dì.
JEAN
THƯ GỬI MARGUERITE CASSAIGNE, từ Sài-Gòn
Ngày 11 tháng 6 năm 1954
Dì Marguerite thân yêu,
Sua một cuộc du hành kéo dài 12 ngày trên Cao Nguyên trở về, con đã là nạn nhân của một biến cố bi-hài buộc con phải tĩnh dưỡng hai tuần lễ. Con đã bị một con chó dại cắn trúng. Vào buổi sáng ngày 20 tháng 5, con đã tìm thấy một con chó con lẫn trốn dưới bàn làm việc của con, trên lầu của Tòa Giám-mục. Vừa giơ tay định ẵm nó, thì nó cắn con ngay ở tay. Khi anh giúp việc của con định bế nó lên, con chó cũng tìm cách cắn anh ta. Vậy là cả nhà nhào vô, trói gô chú chó và mang tức khắc tới Viện Pasteur.
Người đứng đầu Ban chống bệnh dại tuyên bố ngay với con, rằng con chó rất đáng ngờ và anh tài xế của con và cả con phải bắt đầu việc chữa trị, gồm 25 mũi tiêm huyết thanh phòng dại. Ngày hôm sau đó, con chó chết và cuộc khám nghiệm cho thấy nó thật sự bị dại. Con đã theo việc chữa trị, mà hai tuần đầu làm con rất mệt, đánh thức bệnh sốt rét muôn thuở của con. Hôm nay con kết thúc mũi tiêm thứ 25 và từ sáu ngày nay, chẳng những con hết mệt nhọc, mà trái lại, còn thấy ăn ngon miệng lại và trong người rất khỏe.
Ở Viện Pasteur, con gặp Tướng Chỉ Huy quân đội Pháp tại Miền Nam Việt Nam, cũng đang theo chữa trị bệnh dại, vì ông ta bị một con mèo cắn. Nhưng điều tức cười, đó là ông tường nầy đã không thể tìm thấy được con mèo. Khi ông giám-độc Viện Pasteur yêu cầu cho tìm con mèo, để xem nó có bị bệnh dại chăng, thì người ta thấy nó ở trong nhà bếp, nhưng mấy người giúp việc đã cho con mèo vào nồi nấu để nhậu. Ông tướng nổi cơn thịnh nộ, vì dù không có ác ý, họ đã dọn món hẩu nầy cho ông tướng thưởng thức. Con cứ cho là mình đã thấy hết mọi sự. Nhưng không, trong xứ sở nầy, người ta luôn có một cái gì đó để chịu đựng và một điều nào đó để học hỏi. Dù có ra sao, thì một lần nữa, Thiên Thần Hộ Thủ của con đã làm tròn nhiệm vụ của Người.
Một việc phiền toái hơn đã xảy ra với con vào tuần vừa rồi. Trong đêm ngày 2 tháng 6, Việt-Minh đã làm nổ tung một kho lớn thuốc nổ, nằm ở một trong các giáo xứ của con cách Sàigòn 6 cây số. Từ 3 giờ sáng cho đến chiều, những tiếng nổ mạnh làm rung chuyển Sàigòn, làm nhiều cửa hàng buôn bán bị vỡ rất nhiều kính. Nhưng tại hiện trường thì cả một thảm họa: thánh đường, nhà xứ, trướng lớp, v.v... đều bị thổi bay, gây ra hàng triệu đống đổ nát. May thay, năm linh mục của cộng đoàn Kitô giáo nầy, các nữ tu, giáo dân, hiểu ngay từ tiếng nổ đầu tiên, nên đã chạy thoát thân, bỏ lại tất cả, cho nên chỉ có 10 nạn nhân. Và đó là lần thứ hai cộng đoàn nầy bị phá hoại, bởi vì kho đạn nầy đã nổ tung một lần vào ngày 31 tháng 8 năm 1952, làm con tốn 7 triệu. Mọi người đều đã chán ngấy cuộc chiến đáng buồn nầy.
Con ôm hôn Dì với tất cả sự âu yếm thắm thiết.
JEAN
Trong thư từ liên lạc của Ngài, Đức Cha Cassaigne rất kín đáo, không để lộ về Ngài. Ngày 23 tháng 12 năm 1954, bốn ngày sau khi khám phá ra dấu hiệu bệnh cùi trên da, Ngài viết cho bà mẹ kế và nói về tình trạng sức khỏe của Ngài như sau :
Dì Marguerite yêu qúy,
Con muốn chúc Dì được một năm mới bắt đầu tốt đẹp và êm dịu biết bao. Phần con, con rất khỏe và con dám nói là ngày càng khá hơn, vì gánh con càng nặng, thì ân sủng con nhận được càng nhiều, để có thể chu toàn. Trong những lần đi thăm những vùng giành lại được, nhìn thấy Đức Tin (của những người Việt) sống động mức ấy, con đã không nén nỗi xúc động, và nhất là tuần vừa rồi, con đã không thể cầm được nước mắt. Ôi Việt-Nam yêu dấu và thắm đẹp, Thiên Chúa không thể bỏ rơi đất nước nầy.
Vấn đề người di cư Miền Bắc giải quyết từ từ, bời vì chẳng dễ dàng gì cho tái định cư đông đảo những người bần hàn như thế. Những người nầy cũng nêu gương sáng đức tin, vì họ đã bỏ lại tất cả, chỉ vì muốn giữ nguyên vẹn đức tin Công-giáo của họ. Người tìn hữu di cư ở Miền Nam nay khoảng hơn 400.000, với hơn 600 linh mục, bằng ấy cho con một giáo phận quan trọng, nhưng cũng lầm than biết bao.
Hôn Dì thắm thiết, với tất cả tấm lòng thừa sai của con.
JEAN
Thư viết ngày 10 tháng Giêng năm 1960, sau khi Đức Cha về ở hẳn tại Di-Linh.
Những bệnh nhân phong cùi yêu qúy của tôi, nay đã là 210 người, càng ngày càng tỏ ra yêu thương và được yêu thương và ở bên họ, tôi nếm cảm được nhiều an ủi và niềm vui hơn là tôi gặt hái được trong 15 năm ở Sàigòn. Rất đạo hạnh, họ gồm 140 người Công-giáo và chừng 50 tân tòng và hết thảy bọn họ đều có được sự sốt sắng của trẻ thơ. Mỗi Chúa nhật, có khoảng 120 người rước lễ và các ngày trong tuần thì mỗi hôm có khoảng 30 người chịu lễ. Họ sống gần như một cộng đoàn tu-sĩ; hơn nữa, họ hớn hở và vui tươi và giữa họ có sự thuận thảo tuyệt vời. Đó là một thiên đàng hạ giới và tôi chẳng khi nào tạ ơn Chúa đủ, đã cho tôi được ân phúc về lại ở giữa họ.
Lá thư sau đây là thư Ngài trả lời câu hỏi của một chàng trai 17 tuổi, sinh ở Grenade, đang suy nghĩ về chức linh mục.
Di-Linh, ngày 26 tháng 2 năm 1965
Anh Bạn thân mến,
Rất cám ơn về lá thư dễ thương của con, mà Cha cố gắng trả lời tốt nhất có thể, theo những câu hỏi của con.
1. Cha đã thụ phong linh mục ở Chủng Viện Hội Thừa Sai Paris, ngày 19 tháng 12 năm 1925 và được tấn phong giám mục tại Sàigòn ngày 24 tháng 6 năm 1941.
2. Kể từ khi rước lễ lần đầu và sau khi mẹ cha, là người khích lệ ơn gọi của cha, qua đời, cha luôn ao ước được làm một linh mục thừa sai. Cha còn cả thú nhận rằng, trong chiến tranh 1914 – 1918 mà cha đi lính 5 năm, trong khi cha đang là chủng sinh, thì điều cha sợ nhất không phải là bị giết chết, mà chỉ sợ bị thương nặng, đến mức ngăn không cho cha tận hiến cho các xứ truyền giáo.
3. Phải nói thật là cha chưa bao giờ bị thất vọng, trừ cái lần sau khi chịu chức linh mục, cha nhận bài sai đi làm nhiệm vụ ở Sàigòn. Ở trong chủng viện Hội Truyền Giáo Paris, ai cũng mơ những rừng rậm, những người bán khai và ở Viễn-Đông thì rất nhiều những cái đó, bởi vì giờ nầy cha đang ở giữa họ. Vậy mà cha lại bị sai đi tới Nam Kỳ, mà thủ đô Sàigòn vốn là viên ngọc Viễn-Đông. Thế là tan mộng rừng rậm. Cha lầm to, vì sau khi học tiếng Việt trong một tỉnh ở phía Đông Nam-Kỳ, Giám-mục của cha đã phái cha vào trong rừng Việt-Nam, nơi những người "mọi", từ mà tiếng Việt có nghĩa là "mọi rợ". Chính ở nơi đó, mà sau khi từ chức Giám-mục Sàigòn, Chúa đã cho phép cha được trở về lại và còn hơn thế nữa, được ở giữa những người cùi thân yêu của cha.
4. Cha đã được biết đến những niềm vui lớn lao nào ư? Chúa ơi, cha không thể kể hết từng chi tiết cho con nghe, bởi vì Cha đã gặt hái được suốt trong 39 năm sống đời thừa sai của cha. Trước tiên, sau 3 năm ở Di-Linh, khi Cha được niềm vui lớn lao là rửa tội cho một tân tòng người Thượng, ngày 19/3/1930, một thanh niên 20 tuổi, luôn sống đời tín hữu hết sức tốt lành và chính anh ta đã làm cho cả nhà, rồi cả làng trở lại đạo.
Rồi những lần ban phép rửa tội, những khi cho rước lễ lần đầu, những khi giúp anh em chết lành, bởi vì cho tới ngày Cha được nâng lên hàng Giám-mục, thì Cha đã có được vinh dự rửa tội 1.111 người trong vùng Di-Linh, rồi trao lại cho vị linh mục kế thừa tiếp tục công việc.
Sự trở lại Trại Cùi của Cha vào năm 1955, cha chưa bao giờ được hạnh phúc đến thế và kể từ đó đến nay, cha vẫn hạnh phúc.
5. Cha có gặp những lúc khó khăn không ư? – Hẳn là trong đời người, ai cũng gặp những khó khăn, ngay cả với một linh mục, ví dụ như khi Cha Chauvel, vị linh mục kế nhiệm Cha ở Di-Linh, một thừa sai lỗi lạc 30 tuổi, đã bị Việt-Cộng sát hại gần nhà Ngài. Trong 15 năm cha ở Tòa Giám Mục Sàigòn, thời kỳ Nhật chiếm đóng và Việt-Cộng khởi nghĩa, đã hai lần Việt-Cộng lên án tử cho Cha. Còn buồn phiền ư? – Trong những khi lên cơn sốt rét, vì trong nhiều ngày Cha không thể nào dâng Thánh Lễ, hoặc là bệnh đau cột sống, mỗi khi đến mùa khô, ngăn không để Cha lên bàn thờ dâng lễ. Do vậy, cha chỉ có duy nhất một nỗi buồn phiền, là khi không thể dâng Thánh Lễ. Sự đau đớn không ngăn cản cha được hoàn toàn hạnh phúc; người linh mục thấy mình "linh mục" – và điều mà linh mục phải trở nên: hiến lễ – trong lúc chịu khổ đau, hơn là khi hành động. Tóm lại, nếu phải bắt đầu lại cuộc đời của một thừa sai trong 39 năm, trong đó 24 năm ở với người Thượng và 15 năm ở Tòa Giám Mục Sàigòn, như Cha đã sống, với những buồn phiền đau khổ và những niềm vui mênh mông, thì Cha sẽ chẳng do dự một giây nào cả và Cha lại sẽ ra đi lần nữa.
Hỡi Bạn nhỏ thân yêu, Cha chúc cho con, trong cuộc sống linh mục sau nầy, cũng sẽ được hạnh phúc như Cha đã và đang được. Hiệp nhất trong lời cầu nguyện và hãy tin tâm tình yêu mến của Cha đối với con trong Chúa Giêsu.
+ JEAN CASSAIGNE |
|